Hoàng Long -
"...Nhưng nếu còn đẹp vì nhau,
xin nhẹ đi vào sầu
bởi thương tiếc nhiều đau bấy nhiêu..."
Trúc Phương (1939-1995)
Những kinh nghiệm thu lượm được trong nghịch cảnh cũng chính là chân lý của suốt cõi muôn năm. Chân lý công ước của một người âm thầm cưỡng kháng một kiếp sống thầm lặng đã an bài để vươn tới một chân trời mơ ước.
Có khi con người bị giam giữ trong xác thân, xác thân lại bị giam hãm trong tù ngục nhưng mơ ước kiện toàn nhân vị vẫn hiển bày trong thơ ca. "Làm thơ để khỏi làm thinh chứ không phải làm thi sĩ". Như Emily Dickinson đã nói "nhà thơ từ tốn hiển bày một thế giới, rồi lẳng lặng ẩn mình trong bóng tối, để cho thơ tự nói". Hơn thế nữa, phong trào hậu hiện đại cho rằng "tác giả đã chết", chỉ tác phẩm còn lại mà thôi. Mà mọi cách hiểu phiên giải của chúng ta đều chỉ là sai lầm. Do ngộ nhận do chính cách hiểu của mình áp đặt vào tác phẩm. Hơn thế nữa, cho dù chúng ta có hiểu đúng đi chăng nữa thì cũng không thể múc cạn ý tưởng của tác giả bằng ngôn ngữ thường tình bởi "ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành ý diệt". Nhưng rồi chúng ta phải như Vưgốtki nói "tôi sẽ cố gắng không cho phép mình ngạc nhiên, không cười, không khóc, nhưng cố hiểu". Như thế bản thân sự viết cũng đã là bi kịch. Nhưng nếu không "nương vào ngôn ngữ" thì còn cách nào khác để truy vấn một chân dung? Bởi thế chúng tôi cũng sẽ bắt buộc mình cố hiểu Văn Cao qua một bài thơ của ông, bài "Cánh cửa".
Cánh cửa
"Một tiếng động khóa
Xin mời vào
Cánh cửa mở ra thật rộng
Chỉ thấy
Một chiếc cầu thang nhà trên gác
Và ánh sáng
không động đậy
Một giọt mồ hôi
Lăn trên trán tôi"
1960
Đọc "Cánh cửa" bao nhiêu lần, vẫn thấy bài thơ rờn rợn. Bởi người cảm nhận chưa thể quen được với bài thơ. Đây là cảm thức mà chính Văn Cao đã trải qua, rất thực, thực đến ghê rợn. Một cảm thức rất Kafka. Trong đời, bao nhiêu lần ta nghe những tiếng động khóa vô tình trong đêm, lạnh như một viên gạch rơi xuống đất cứng, và âm thầm tự hỏi (những thứ giết chết con người nhanh nhất thường là những tiếng âm thầm, khô lạnh) đời sống mình rồi có như K, như G.Samsa của Franz Kafka? Ta cũng như K, như Samsa đợi chờ những tiếng động khóa rồi bị bắt "chết âm thầm như chó, để lại nỗi nhục ở đời" hay bị biến thành một con sâu khổng lồ (quái nhân hay một thứ gì tương tự vậy). Vì thế sự chờ đợi mang theo cảm giác hãi sợ, không cần biết có ai, có điều gì đến cũng âu lo, kinh khiếp. "Giọt mồ hôi lăn trên trán tôi" là hình ảnh gợi, rất tuyệt để diễn tả sự dòn mỏng của con người trong tình thế này (bởi mỏng thì dễ tan mà dòn thì dễ vỡ). Một sự hiện hữu tuyệt vọng? Hay có thể Văn Cao bỏ cả đời để chờ đợi một tiếng gọi của vô hình? Phải chờ đợi dù là chờ đợi cả một đời...
Bài thơ còn hay ở cách đặt vấn đề rất Văn Cao. Rất triết lý. Không dễ dàng "thấm" được giọng thơ u ám băng hàn này. Martin Heidegger cho rằng "thi nhân và triết gia là người canh giữ ngôi nhà của tính thể". Vậy thi nhân cần phải nhìn đời và tra vấn theo kiểu triết gia để nảy sinh thi ca tư tưởng. Còn triết gia cần phải nhìn đời bằng cặp mắt của thi nhân cho triết lý bớt trụi trần khốc liệt. Nên những nhà văn lớn đồng thời cũng là nhà tư tưởng lớn như Albert Camus, Hoderlin, Rilke... Nhưng rất thường khi người ta lại quên mất điều đó nên một cách vô tình đã xô đẩy thi ca vào vực thẳm lưu đày của sự ngộ nhận. Và sự ngộ nhận trầm kha này ngày càng vô phương cứu chữa. Thi ca trong lịch sử đã bị ám sát bởi quá nhiều kẻ nhân danh. Để cứu sống một quan niệm ta cần chờ đợi thời gian. Có nghĩa là âm thầm đẩy đưa thi ca vào hư vô cùng tuyệt. Âm thầm mở cửa thật rộng đợi chờ hư vô ghé thăm. Thời gian và hư vô sẽ trả lời cho đám đông cõi thế. Biết làm gì ngoài làm bạn với cái bóng của mình và chờ đợi hư vô? May mà còn có rượu đưa men tìm về nhục cảm của một miền thân xác "vào lúc này lại vùi đầu vào em, đôi môi em thơm một hơi rượu nồng, chúng ta ngủ tìm một cơn mộng, quên một ban ngày nhọc nhằn chịu đựng, biết bao lần tìm quên như đêm nay". Vì thế bài thơ này chót vót cô đơn. Những nghệ sĩ lớn suốt đời cô đơn. Đấy là định mệnh muôn đời của kẻ sáng tạo. Làm bạn với ánh sáng "không động đậy", với "cầu thang nhà trên gác". Cõi thơ Văn Cao đấy. Ai can đảm thì bước lên tương giao. Văn Cao cô đơn lắm. Nhưng cẩn thận bước chân mình lại làm Văn Cao nhỏ mồ hôi trán. (Đó có phải là một phản xạ đề phòng có điều kiện như kiểu "có lúc ban ngày lá rụng sao hoảng hốt"?). Đừng vì tiếng động khóa của mình mà biến Văn Cao thành một con sâu.
Thường chúng ta trong đời này hay phân chia sự vật đối tượng một cách nhị nguyên rồi đứng về một phía mà tranh luận phải trái, không biết rằng sự phân chia đó là tương đối, do tâm thức sai lạc của mình tưởng tượng ra mà cứ nghĩ đó là hiện thực khách quan (theo Duy thức học Phật giáo là nhầm lẫn đới chất cảnh làm tánh cảnh. Huyền Trang khi dịch "Bát thức quy củ tụng" có câu "đới chất hữu phú thông tình bản"), thì hiển nhiên cuộc tranh luận ấy sẽ chẳng bao giờ là cùng đường bởi do con người chiến đấu cho một ảo tưởng. Hay nói như Cao Xuân Huy là "muốn tính bình phương của một hình tròn". Lão Tử trong "Đạo đức kinh" có viết "Thiên hạ giai tri mỹ vi mỹ, tư ác dĩ, giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ". Sở dĩ như vậy là bởi "cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy".
Ngôn ngữ là phương tiện thể hiện tư tưởng như ngón tay chỉ mặt trăng, như cây đèn soi trong bóng tối để ta nhìn thấy đồ vật. Bản thân ngôn ngữ không phải là tư tưởng. Tức là chúng ta phải "nương theo" ngôn ngữ để nhìn ra cái không thể nói bằng lời. "Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý" là vậy. Người đọc nhiều khi không nhìn thấy cái "thoại trung hữu thoại" hay cái "bóng chữ" như Lê Đạt nói đã đành. Mà người viết nhiều khi do phải dò đường (đường ở dưới chân ta, cứ đi mãi thì thành đường thôi) nên "xuôi theo", phó mặc cho ngôn ngữ đi vào cõi mịt mù khốc liệt của tư tưởng hoang liêu như chưa từng biết đến "từ đó đôi mình buông xuôi tất cả như hai kẻ lạ, anh gặp em ngoảnh mặt, em gặp anh gục đầu, thoáng dài buồn hun hút đoạn buồn một lần qua..." (Trúc Phương). Bởi vậy mà khi tìm ra một cách diễn đạt mới, thiên tài thường bị kéo theo bao nhiêu hệ lụy do ngộ nhận của "người đương thời": "căn phòng hơi ngạt, nhốt không cho bay lên, bạch tuộc quấn chân tay, phả vào người máu độc" (Hoàng Long).
Bởi thế mà suốt bao năm sinh thời, bao nhiêu người viết (trong đó có Văn Cao?) đã thấy mình như một con chim bơ vơ hót lặng câm trên bức tường trắng của tang thương đã úa vàng vì tuổi tác. Ai làm cho họ phải nhìn đời bằng con mắt rướm máu? Ai làm cho ta phải hận ta khi đối mặt đời? Đến mức như Tô Đông Pha chăng? Tô Đông Pha, người từng có giọng điệu mỉa mai tàn khốc "đản nguyện tử tôn ngu thả độn, vô tai vô hại đáo công khanh", đã phải tự hận mình rằng "nhân giai dưỡng tử cầu thông minh, ngã vị thông minh ngộ nhất sinh" (người ta sinh con ai cũng muốn con mình thông minh, còn ta vì thông minh mà lầm lỡ cả một đời người). Đến mức như Nguyễn Trường Tộ chăng "nhất thất túc thành thiên cổ hận, tái hồi đầu thị bách niên thân" (một bước lỡ để nghìn năm mang hận, ngoảnh đầu trông lại đã trăm năm". Hay như chính Văn Cao chăng "có những ngày buồn không nói được, tôi chỉ tìm ra sự sống của tôi".
Như một câu thơ khác của Văn cao "Em yêu của anh, nói gì được bây giờ, nói gì được bây giờ". Đó cũng là một thảm kịch khác nữa. Bởi có lần ông từng trao truyền một thi hứng "anh có nghe thấy không, chỗ nào cũng có tiếng chưa nói lên" như một tiếng thét đại ngộ của Rilke trong bài sầu ca thứ nhất "khi tôi la hét lên, ai là người nghe tôi giữa phẩm hạng các linh thần?". Như thế chúng ta nghĩ gì về "công án Văn Cao"?
Và chúng ta cũng còn nói được gì nữa... Bây giờ...
"... Đến nay thì đã
Đắng cay nhiều quá
Thơ ngây đi mất trong bước buồn giờ mới hay..."
Trúc Phương (1939-1995)
Mộc Các, Sài Gòn, tháng 8/2005