Paul Gray -
Trang bìa cuốn "Suite Française". |
Cuối sách là phụ lục những thông tin về tiểu sử tác giả. Sinh ra tại Ukraine, Irène Némirovsky di tản sang Pháp vào năm 1919 và tạo dựng cho mình một ví trí riêng trên văn đàn nước này với 9 tiểu thuyết và một cuốn tiểu sử về Chekhov. Némirovsky viết Suite Française tại ngôi làng Issy-l'Evêque - nơi bà cùng chồng và 2 cô con gái lánh nạn trong những ngày Đức quốc xã xâm chiếm Paris. Ngày 13/7/1942, Némirovsky bị bắt và đày đến trại tập trung Auschwitz. Một tháng sau, bà qua đời.
Mặc dù chưa thể xác minh được một cách chính xác ngày giờ nhà văn qua đời nhưng hoàn toàn có thể khẳng định Suite Française được viết gần như cùng lúc với thời điểm xảy ra các sự kiện được miêu tả trong tác phẩm. Đây là điều mà nhiều người cho là không thể nào thực hiện được. Trong cuốn The Great War and Modern Memory, Paul Fussell miêu tả về quá trình phổ biến - từ những tác động tức thì đến sự thể hiện tĩnh lặng - của nhà văn khi viết về những sự kiện lớn trong đời sống như sau: "Ý nghĩa của tác phẩm chỉ có thể đạt được khi những sự kiện mang tính nhật ký hoặc sử biên niên được chuyển hoá thành một thứ hồi tưởng, bởi chỉ có hồi tưởng mới có thể tạo nên sự mạch lạc của chuỗi sự kiện hoặc tạo nên những đáng kể nào đó cho tác phẩm".
Nhà văn Irène Némirovsky. |
Nhưng chỉ vài tháng sau khi những sự kiện lịch sử lớn diễn ra, Némirovsky đã có thể sử dụng chúng làm chất liệu để viết nên một tác phẩm có giá trị. Tất nhiên cũng bởi khi viết The Great War and Modern Memory, Fussell chưa từng nghe đến Suite Française cũng như câu chuyện của con gái nhà văn - Denise Némirovsky - người đã lưu giữ bản thảo tác phẩm kiệt xuất này trong một cuốn sổ bìa da nâu suốt hàng chục năm qua. Denise từng không dám đọc lại cuốn sách bởi bà sợ sẽ chạm vào những vết thương cũ về cái chết của những người thương yêu (bố bà, ông Michel Epstein cũng bị bắt và đày tới Auschwitz cho tới khi qua đời). Cho đến những năm cuối thập kỷ 90, Denise mới phát hiện ra những trang viết mẹ mình để lại không phải là nhật ký hay những phóng sự báo chí mà là một cuốn tiểu thuyết gồm 2 phần viết trong cuốn sổ nhỏ bằng lòng bàn tay trên thứ giấy rất khan hiếm lúc bấy giờ. Chính vì thế bà đã thay đổi kế hoạch, thay vì trao nó cho Viện lưu trữ các tư liệu cá nhân trong chiến tranh của Pháp, bà cho xuất bản cuốn sách. Tác phẩm xuất hiện năm 2004 và ngay lập tức trở thành best-seller.
Storm in June (Bão tháng Sáu), phần đầu của Suite Française, mở ra bằng cuộc tấn công bất ngờ của quân Đức vào ngoại ô nước Pháp, khi người dân đang chìm trong giấc nồng. Tiếng gầm rú của máy bay, của còi báo động vang lên inh ỏi. "Với họ, nó bắt đầu như một tiếng thở dài, như là không khí bị nén vào quá chặt. Liền sau đó tiếng khóc than, la hét dội lên khắp trời". Thomas Pynchon có lẽ chưa từng đọc cuốn tiểu thuyết của Némirovsky nhưng khi viết Gravity's Rainbow, ông đã mở đầu như sau: "Một tiếng thét ngang qua bầu trời". Cuộc tấn công trong Storm in June bắt đầu: "Một quả đạn pháo phát nổ, bây giờ thì gần Paris đến nỗi từ trên đỉnh các tượng đài, chim chóc vỗ cánh vù lên trời cao. Những con chim đen khổng lồ - loài chim rất ít khi xuất hiện - vội vã sải đôi cánh rộng". Với lối trần thuật ngắn gọn, sắc sảo, Némirovsky nhanh chóng đưa người đọc vào một không khí đầy hoảng loạn.
Người dân Paris nhanh chóng nhận ra rằng, chẳng có bất cứ thứ gì - kể cả quân đội Pháp dũng cảm và gan dạ mà họ vẫn được nghe ca ngợi - đứng ra làm rào chắn bảo vệ họ trước quân Đức khát máu, họ mạnh ai nấy chạy, tán loạn tìm đường thoát thân. Để miêu tả cảnh tượng bi thảm này, ngòi bút của Némirovsky đã tập trung đặc tả vào một số nhân vật nhất định với những gương mặt còn vẹn nguyên nỗi hoảng sợ.
Người dân Paris sơ tán khỏi thành phố (6/1940). |
Trong khi người chồng là một quan chức chính phủ còn nán lại, Charlotte Péricand cùng 4 trong số 5 đứa con và một đoàn tùy tùng giúp việc dắt díu nhau đi tìm nơi lánh nạn trước. Cuộc trốn chạy dường như càng nặng gánh hơn với một đống của cải mà Péricand không nỡ bỏ lại. Gabriel Corte, một nhà văn giàu có nhưng tự cao tự đại coi sự tháo chạy của người dân Paris là một sự sỉ nhục đối với tâm hồn nhạy cảm và những suy nghĩ tao nhã của mình... Như thường lệ, Némirovsky không đưa ra bất cứ bình luận nào đối với hành động của các nhân vật, bà để mặc họ tự do thể hiện mình, dù tốt dù xấu, trên cái sân khấu mà cuốn tiểu thuyết đã dựng sẵn...
Khác với không khí hỗn loạn, huyên náo trong phần đầu tiên, Dolce (Yên bình) - phần thứ hai - diễn ra trong một không gian thanh bình và yên ả hơn. Sự thất bại đã ăn sâu vào ý thức và tâm hồn của người Pháp. Quân Đức, những kẻ chỉ xuất hiện lởn vởn như những bóng ma trong tập đầu giờ hiện nguyên hình thành những nhân dạng cụ thể. Tác phẩm đi vào cận cảnh ngôi làng Bussy, nơi có một binh đoàn Đức quốc xã đang đóng quân. Những thanh niên trai tráng trong làng hoặc đã ra mặt trận hoặc đã chết hoặc bị bắt bớ làm tù binh, chỉ còn lại người già, phụ nữ và trẻ em. Họ chào đón những kẻ xâm lược bằng nỗi sợ hãi và sự ủ ê, buồn thảm. Bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi lâu dài về sự tàn bạo và khát máu của quân Đức, người làng hầu như không có tâm thế đối diện với kẻ chiếm đóng, dù lính Đức hầu hết chỉ nhỉnh hơn những đứa trẻ mới lớn. Kẻ đi xâm lược vẫn đối xử cung kính với những người chủ nhà yếu thế, nhẹ nhàng chia kẹo cho những đứa trẻ. Người dân Bussy dần dà cũng quen được với thực tế mới, dù không dễ dàng gì.
Lucile Angellier sống cùng mẹ chồng ở làng Bussy. Dẫu không hề tỏ ra đau buồn trước cảnh anh chồng thô lỗ, cục mịch bị quân Đức bắt làm tù binh nhưng cô vẫn phải che giấu những tình cảm thật của mình trước mặt mẹ chồng - người luôn tôn sùng con trai như một vị thánh. Trong khi đó, gia đình cô buộc phải tiếp nhận sự có mặt của Bruno von Falk - một người lính Đức quốc xã. Lucile cố gắng tỏ thái độ lạnh lùng, khinh bỉ với Bruno như những người quanh mình vẫn làm, nhưng thực tế cô cảm thấy thực sự ấm lòng khi trông thấy anh. Anh đẹp trai, chơi piano rất điệu nghệ. Anh kể cô nghe rằng anh vẫn thường đọc Balzac mỗi tối và rằng anh chưa kịp thực hiện ước mơ trở thành một nhạc sĩ thì cuộc chiến tranh đã nổ ra. Đêm này qua đêm khác, Lucile dần cảm thấy thân thuộc với sự hiện diện của người đàn ông thù địch này trong phòng ngủ kề cạnh. Cô lắng nghe những bước chân của anh cho đến khi người lính trẻ đã chìm vào giấc ngủ.
Némirovsky khéo léo xây dựng nên một chuyện tình thơ mộng, dẫn dắt đến một câu hỏi đầy khó khăn: Sự say mê giữa Lucile và Bruno rồi sẽ đi đến đâu? Tình huống đó càng trở nên nan giải hơn khi tác giả lồng vào một chi tiết mới. Một nông dân trong làng trong khi nóng giận đã giết chết một người lính Đức. Vợ của người đàn ông tội nghiệp đó khẩn khoản nhờ Lucile cho chồng mình trốn trong nhà cô - nơi duy nhất không bị nghi ngờ - bởi gia đình Angellier là nơi đặt trụ sở của ban chỉ huy binh đoàn. Liệu Lucile sẽ lựa chọn tình yêu hay danh dự?
Némirovsky đã phác thảo Suite Française thành 5 phần, sau Storm in June - Bão tháng Sáu, Dolce - Yên bình là Captivity - Vây bắt, Battles - Những trận đánh và Peace - Hoà bình. Nhưng như ta biết, Némirovsky qua đời khi bắt đầu bước sang phần Captivity. Hai phần cuốn tiểu thuyết của bà là những gì còn lại nhắc nhở chúng ta về sự kinh hoàng của sự kiện Holocaust. Đó cũng có thể được coi là một tác phẩm đầu tiên viết về cái mà chúng ta gọi là thế chiến II – những trang văn vĩ đại, đầy tính nhân đạo và sắc sảo nảy sinh từ cuộc xung đột của loài người.
H.T. lược dịch
(Nguồn: The New York Times)