Nhà nghiên cứu Châu Hải Đường đã dày công tìm tòi các ghi chép về Việt Nam ở 17 trong 26 bộ chính sử Trung Quốc, để dịch và in thành sách An Nam truyện (NXB Hội Nhà Văn). Đây là một tài liệu quý giá dành cho những người yêu thích tìm tòi, khám phá về lịch sử Việt Nam.
Theo tác giả Châu Hải Đường (tên thật là Lê Tiến Đạt), trong những bộ sử lớn của các triều đại phong kiến Trung Quốc, từ Sử ký, Hán thư, Hậu Hán thư đến sử của các triều Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… đều có những ghi chép liên quan đến Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ từ Tống sử về sau, khi nước ta đã hoàn toàn độc lập, thì mới có truyện riêng ở phần Ngoại truyện. Với các bộ sử trước nhà Tống, hầu như chỉ có thông tin phiến diện qua liệt truyện của các nhân vật liên quan tới lịch sử Việt Nam.
Do đó, cuốn An Nam Truyện bắt đầu từ những ghi chép trong Tống sử, “Niên hiệu Trinh Minh nhà Lương, thổ hào Giao Chỉ Khúc Thừa Mỹ chuyên giữ đất ấy, nạp khoản quy thuận Mạt đế, nhân đó bèn trao tiết việt cho Thừa Mỹ”.
Bìa sách "An Nam truyện". |
Viết về Đinh Tiên Hoàng, vị vua khởi đầu nền độc lập, tự chủ của Việt Nam, sử nhà Tống viết: “Mười hai châu trong địa hạt đại loạn, bộ dân hò nhau tụ tập, nổi lên làm giặc, đánh phá Giao Châu… Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đem quân đánh bại bọn Ngô Xử Bình, đảng giặc tan vỡ, trong địa bàn đều yên, dân Giao Châu cho là có ơn đức, bèn suy tôn Bộ Lĩnh làm Giao Châu soái, hiệu là Đại Thắng vương, đặt con trai là Liễn làm Tiết độ sứ”.
Tuy nhiên, tác giả Châu Hải Đường cũng chỉ ra những sai lệch của sử Trung Quốc khi viết về nước ta. Như trong bộ Nguyên sử, dù chép từ bộ sử của các triều đại trước, nhưng phần tổng lược về lịch sử Việt Nam được viết như sau: "Nhà Tống phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương, con là Liễn cũng làm vương. Truyền qua ba đời thì bị Lý Công Uẩn đoạt lấy". Như vậy, Nguyên sử đã chép thiếu thời kỳ Tiền Lê của vua Lê Hoàn ở nước ta, dù thời kỳ này trải tới ba đời vua, qua 29 năm.
Ở cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất năm 1257, Nguyên sử chỉ ghi chi tiết sự kiện tìm thấy hai sứ giả nhà Nguyên bị vua nhà Trần trói trong ngục thất, một viên đã chết, khi quân Nguyên vào chiếm Thăng Long đã được nhà Trần bỏ không, rồi “quân triều đình lưu lại chín ngày, vì khí hậu oi nóng, bèn rút quân về”.
Đến các cuộc chiến với Đại Việt lần thứ hai và ba, Nguyên sử có nhiều ghi chép về Hưng Đạo vương với lời lẽ trang trọng, như sau khi vua nhà Trần lại rút khỏi kinh thành năm 1285: “Nhật Huyên (Trần Thánh Tông) dẫn tôn tộc, quan lại đến Thiên Trường, Trường Yên, tụ tập đóng lại, Hưng Đạo vương, Phạm Điện tiền (Phạm Ngũ Lão) lĩnh binh thuyền lại tụ họp đến cửa sông Vạn Kiếp…”, hay khi Thoát Hoan rút quân về châu Tư Minh thì “Hôm ấy, Lưu Thế Anh đánh dữ cùng quân của Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương hơn hai vạn người”.
Còn trong chuyến xâm lược nước ta lần thứ ba năm 1288, sau khi chép về việc đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị đánh chìm ở biển Lục Thủy, sử nhà Nguyên chỉ viết ngắn gọn về quá trình Thoát Hoan rút chạy về ải Nội Bàng: “Quân do thám cho biết Nhật Huyên cùng Thế tử và Hưng Đạo vương chia hơn ba mươi vạn quân, đóng giữ Nữ Nhi quan và núi Khâu Cấp, nối nhau hơn trăm dặm để chặn đường về quân Nguyên. Trấn Nam vương bèn từ huyện Đơn Kỳ chạy sang Lộc Châu, theo đường tắt mà ra, đến châu Tư Minh”.
Còn trong bộ sử nhà Thanh là Thanh sử cảo, thất bại của Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789) được viết khá chi tiết: "Mồng Một tháng Giêng, trong quân bày rượu tấu nhạc, đang đêm bỗng có tin báo quân Nguyễn (Huệ) đã tới nơi, mới hốt hoảng chống cự".
"Quân địch dùng voi chở đại pháo xung phá quân ta, quân ít không địch nổi số đông, trong đêm tự dẫm đạp lên nhau mà chạy. Tôn Sĩ Nghị vượt sông Phú Lương (sông Hồng), rồi lập tức chặt cầu phao để đoạn hậu, vì vậy những quân trên bờ, Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tổng binh Trương Triều Long, cùng quan quân phụ dịch hơn 10.000 người, đều chen nhau chết đuối cả".
Bên cạnh các phần sử, An Nam Truyện còn tập hợp phần truyện về những nhân vật liên quan chặt chẽ đến lịch sử Việt Nam như Triệu Đà, Sĩ Nhiếp, Nhâm Diên, Tích Quang… Ngoài ra, tác giả dịch những phần nội dung trong các bộ sử Trung Quốc ghi chép trực tiếp đến các vùng đất Chiêm Thành, Phù Nam, (Thủy) Chân Lạp, giúp độc giả có được những thông tin về lịch sử xưa của các vùng đất trong tiến trình chung của lịch sử Việt Nam.
Mã Giang