Jauss, Hans Robert -
Lời giới thiệu của Đỗ Lai Thúy: Chủ nghĩa hình thức Nga và sau đó là cấu trúc luận Pháp ra đời đã làm một bước chuyển hệ chuẩn (paradigme) nghiên cứu từ ngoại quan sang nội quan, tức từ tác giả (và hoàn cảnh) sang tác phẩm. Lấy tác phẩm làm trọng tâm nghiên cứu, chủ nghĩa hình thức Nga khẳng định tính tự trị và nghĩa tất định của văn bản văn học. Chủ nghĩa hình thức Nga coi "nghệ thuật là thủ pháp" và trong khi nghiên cứu các thủ pháp nghệ thuật, Shklovski rất chú ý đến thủ pháp lạ hóa. Đây là một thủ pháp nhằm chống lại sự tự động hóa, sự "nhẵn mặt" trong cảm thụ nghệ thuật và khôi phục lại ý nghĩa ban sơ, tinh khôi của ngôn từ. Thế là trong một trường phái văn học không bỏ qua người đọc thì lần đầu tiên vai trò của người đọc được chú ý đến. Rồi chủ nghĩa cấu trúc Pháp tưởng chỉ có "văn bản là trên hết... văn bản nữa, văn bản mãi" thì cũng lại lưu ý đến người đọc bởi trong khi tiếp xúc với văn bản, có thể, mỗi người đọc lại có những cách lý giải khác nhau. Lịch trình tư tưởng phương Tây là như vậy: một khi đi đến cùng cực này sẽ đảo sang cực ngược lại. Khoa học văn học lại chuyển sang một hệ chuẩn mới: từ tác phẩm sang độc giả. Mỹ học tiếp nhận ra đời với sự đóng góp của hai nhà khoa học Đức là Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser. Hans Robert Jauss đến với mỹ học tiếp nhận từ lịch sử văn học. Tác phẩm Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học (1970) đưa ra một quan niệm mới về lịch sử văn học. H. R. Jauss cho rằng lịch sử văn học phải bao gồm cả lịch sử tiếp nhận tác phẩm của người đọc. Thực ra luận điểm mới này lại bắt nguồn từ luận điểm mới về tác phẩm văn học, nghĩa là tác phẩm văn học không chỉ là văn bản của nhà văn, mà văn bản ấy phải được người đọc đọc: tác phẩm chỉ hình thành trong và qua sự tiếp nhận của người đọc. Mỗi một người đọc trước khi tiếp xúc với một tác phẩm cụ thể nào đó, anh ta đã có những kinh nghiệm sống và kinh nghiệm thẩm mỹ ở một mức độ nhất định. Đó là tầm đón đợi, chiếc lăng kính làm khúc xạ những điều chủ ý của nhà văn. Sự tiếp nhận là kết quả của sự cọ sát giữa tầm đón đợi và tác phẩm. Như vậy, tầm đón đợi cũng không đứng yên một chỗ mà thay đổi theo quá trình đọc, còn ý nghĩa của tác phẩm cũng không cố định, mà thay đổi theo từng tầm đón đợi cụ thể. Bởi vậy, có thể nói, bất kỳ tiếp nhận văn học nào cũng là sự dung hợp giữa tầm đón đợi của nhà văn và tầm đón đợi của độc giả. Và lịch sử văn học cũng chính là lịch sử của những sự dung hợp đó. Nếu lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận văn học thì khó khăn gặp phải của nhà viết sử là tư liệu. Ngoài những tư liệu thành văn (bài phê bình, tựa, bạt...) cần có tư liệu bất thành văn là sự thưởng thức của công chúng. Để giải quyết khó khăn này, Hans Robert Jauss đề xuất việc nghiên cứu diễn biến của kinh nghiệm thẩm mỹ qua các thời kỳ văn học lớn. Ông khẳng định thực chất của kinh nghiệm thẩm mỹ là thưởng thức thẩm mỹ. Jauss nêu ra những "địa hình" của thưởng thức thẩm mỹ gồm: poésis (thưởng thức các hoạt động sáng tạo, một cái gì đó không có trong tự nhiên), aisthésis (mặt tiếp nhận của kinh nghiệm thẩm mỹ) và catharsis (thành tựu giao tiếp của kinh nghiệm thẩm mỹ, sự thanh lọc). Catharsis là một khái niệm có từ Thi pháp học của Aristote và về sau được giải thích rất khác nhau trong mỹ học (xem thêm Tâm lý học nghệ thuật (1925) của Vygotsky). Hans Robert Jauss cũng có cách giải thích riêng của mình. Ông đưa ra khái niệm đồng nhất hóa để bổ sung cho khái niệm catharsis, nhất là sự đồng nhất hóa với nhân vật văn học trong kịch và văn xuôi. Nếu Northrop Frye trong Giải phẫu phê bình thiên về mô tả các loại hình nhân vật, thì H. R. Jauss trên cơ sở khái niệm liên chủ thể đã xây dựng lại các loại hình nhân vật và chuyển từ mỹ học mô tả sang mỹ học tiếp nhận. Sự đồng nhất hóa giữa người đọc và nhân vật theo dòng lịch sử đi từ sùng bái, ngưỡng mộ đến suy tư. Mỗi thời đại lịch sử đều có một kiểu đồng nhất chủ đạo (dominante), đồng thời còn có nhiều kiểu đồng nhất khác. Có thể kể ra các kiểu đồng nhất hóa đã diễn ra trong lịch sử và hiện nay như: đồng nhất hóa kết hợp, đồng nhất hóa thán phục, đồng nhất hóa cảm thông, đồng nhất hóa thanh lọc, đồng nhất hóa mỉa mai. Wolfgang Iser, khác với Hans Robert Jauss, đến với Mỹ học tiếp nhận từ phê bình văn học nhất là từ chủ nghĩa hình thức Nga và hiện tượng luận của Roman Ingarden. Bởi vậy, ông tập trung nghiên cứu sự tiếp nhận trong hành động đọc cụ thể. Tác phẩm tiêu biểu của W. Iser là Kết cấu vẫy gọi và Hành động đọc. Và tương tự như H. R. Jauss, W. Iser cũng coi tác phẩm là sự gặp gỡ giữa văn bản và người đọc. Chỉ có qua hành động đọc thì một văn bản mới có thể trở thành một tác phẩm. Nhưng một văn bản, tự thân nó, phải có những đặc điểm nào đó để một mặt, làm cơ sở cho tác phẩm, mặt khác kích thích người đọc thực hiện chức năng của mình. Theo W. Iser, nó phải có một kết cấu vẫy gọi. Nghĩa là, văn bản đó phải có những đặc điểm sau: 1. Văn bản phải có những điểm trắng, những điểm chưa xác định, chưa nói hết, lập lờ, nhiều bè, nhiều tầng bậc tình tiết. Những điểm trắng này sẽ kích thích người đọc bằng trí tưởng tượng của mình lấp đầy, tức biến văn bản thành tác phẩm. 2. Văn bản vừa phải đáp ứng sự quen thuộc của người đọc, vừa phủ định nó, để kích thích người đọc tìm hiểu, khám phá văn bản. 3. Văn bản phải chứa đựng nhiều dự phóng, những kiến tạo trước để đáp ứng một loại người đọc nào đó sẽ hình thành trong và sau khi đọc. Iser gọi đó là người đọc tiềm ẩn. Như vậy, đọc là một hành động sáng tạo, tích cực, chủ động. Trước khi đọc thì còn có chủ thể và khách thể, người đọc và văn bản. Sau khi đọc thì không còn phân biệt giữa chủ thể và đối tượng nữa, tức là người đọc đã nâng cao được ý thức của bản thân mình, hình thành nên một con người mới, con người khác, nhờ phát hiện ra một thế giới bên trong mà trước đây ý thức chưa biết đến. Tóm lại, mặc dù Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser đến với Mỹ học tiếp nhận từ những ngả đường khác nhau, nhưng "ngôi thành La Mã" của họ thì giống nhau ở những điểm cơ bản: 1. Không coi văn bản là trung tâm như chủ nghĩa hình thức Nga, phê bình Mới và cấu trúc luận; văn bản chưa phải là tác phẩm và chỉ là tác phẩm qua hành động đọc. Từ đó trung tâm chú ý chuyển sang người đọc. 2. Lịch sử văn học, vì vậy, chủ yếu là lịch sử tiếp nhận của người đọc. |
1
Toàn bộ thành tựu đỉnh cao của nó đã xuất hiện ở thế kỷ 19: trong thời đại của Gervinus và Scherer, De Sanetis và Lanson, nhà ngữ văn nếu viết được một bộ lịch sử văn học dân tộc tức là đã quàng vương miện cho sự nghiệp của mình. Các bậc cha chú của ngành khoa học này đã xem mục đích chính yếu nhất của họ là phải chỉ ra được sự tìm gặp chính mình của dân tộc bên trong lịch sử của các tác phẩm văn học. Đây là giai đoạn đỉnh cao mà ngày nay chỉ còn là kỷ niệm xa xôi. Lịch sử văn học truyền thống chỉ sống lần hồi trong đời sống tinh thần của ngày hôm nay. Nó chỉ tồn tại như là yêu cầu thi cử được quy định về mặt nhà nước, đã đến lúc phải xóa bỏ. Trong các trường trung học ở Đức hầu như người ta đã xóa bỏ nó khỏi chương trình học bắt buộc. Cùng lắm là trong các tủ sách của những người có học còn có thể tìm thấy những bộ lịch sử văn học thích hợp nhất cho việc giải đáp những câu đố về văn học.
Có thể thấy rằng lịch sử văn học cũng nằm ngoài chương trình giáo dục ở đại học. Tôi phải nói một cách công khai rằng các nhà ngữ văn cùng tuổi với tôi đã làm điều rất tốt là thay vì tổng kết hoặc phân kỳ theo truyền thống lịch sử văn học dân tộc, họ đã hệ thống hóa những bài giảng về lịch sử vấn đề hoặc nêu vấn đề. Đời sống khoa học cũng cho thấy bức tranh tương tự: những công trình lịch sử văn học được xem là không đứng đắn và cao ngạo đã bị thay thế bởi những quyển sách nhỏ nhiều tác giả, các bách khoa thư và hàng loạt sách giải thích. Những cuốn sách tập hợp lịch sử giả này, một cách đặc trưng, không ra đời bằng sự khởi xướng của các nhà bác học mà phần lớn bằng sáng kiến nhiệt tình của nhà xuất bản. Những kết quả nghiên cứu nghiêm túc thì được công bố trong các chuyên khảo của những tạp chí chuyên ngành, với sự áp dụng một cách nghiêm túc hơn các phương pháp phong cách học, tu từ học, văn bản học, ngữ nghĩa học, thủ pháp học, hình thái học và lời nói, môtíp, lịch sử thể loại. Tất nhiên ngày nay trong các tờ tạp chí chuyên ngành vẫn có những bài viết bằng lòng với việc đặt ra vấn đề lịch sử văn học. Có thể phê phán các tác giả từ hai phía: Từ góc độ của các ngành khoa học giáp ranh, có thể xem những vấn đề họ đặt ra là những vấn đề giả, để ngỏ hoặc ẩn kín, còn kết quả là những điều trống rỗng; riêng lý luận phê bình văn học nhẫn tâm thì cho rằng lịch sử văn học cổ điển chỉ bề ngoài là thuộc về những hình thức viết sử, trong thực tế nó vận động ở ngoài chiều lịch sử và đồng thời còn nợ đối tượng, cái đối tượng văn học thuộc về các ngành nghệ thuật, đòi hỏi xác lập sự đánh giá thẩm mỹ của nó.
Loại phê bình này vẫn cần phải được tiếp tục giải thích. Lịch sử văn học truyền thống né tránh tình trạng khó xử của việc liệt kê sự kiện theo lối biên niên sử bằng cách sắp xếp tài liệu theo các trào lưu chung chung, các thể loại và các đề từ "khác", rồi nghiên cứu từng tác phẩm theo trật tự lịch đại bên trong những trào lưu, thể loại đó. Tiểu sử các tác giả và những đánh giá về sự nghiệp sáng tác của họ xuất hiện ngoài đề một cách tình cờ theo phương châm "thỉnh thoảng có con voi trắng". Khả năng khác là nhà nghiên cứu dõi theo sự nghiệp của các nhà văn lớn trong trật tự thời gian, đánh giá họ theo mô hình "đời sống và tác phẩm của họ", còn các nhà văn thất sủng, nhỏ hơn thì đóng vai trò chất liệu độn mà thôi. Với phương pháp này, lịch sử của sự phát triển thể loại cũng không thoát khỏi tình trạng bị phân nhỏ. Phương pháp sau phù hợp với nguyên tắc của các nhà cổ điển thời cổ đại, phương pháp trước thì lại chủ yếu đặc trưng cho những nền văn học thời đại mới hơn, nơi sự lựa chọn bắt buộc từ đám đông tác giả và tác phẩm không thể nào bao quát nổi, đang ngày càng gây khó khăn lớn hơn khi tiến gần tới hiện tại.
Nhưng nghiên cứu văn học theo kiểu tuân thủ quy tắc đã được thần thánh hóa, sắp đặt sự nghiệp sáng tác của các nhà văn theo trật tự lịch đại một cách đơn giản như thế thì "không thể xem - như Gervinus đã nói - là lịch sử, còn chưa xứng là bộ khung lịch sử". Cũng như vậy, không thể xem là lịch sử việc giới thiệu theo các thể loại, đi từ tác phẩm đến tác phẩm để nhận định các hình thức phát triển tự trị của thơ trữ tình - kịch - tiểu thuyết. Và thay vì giải thích các hiện tượng phát triển của văn học thì kiểu nghiên cứu này phần lớn mang tới những suy ngẫm vay mượn từ lịch sử về tinh thần thời đại và các khuynh hướng chính trị của thời đại. Một việc ít thấy và sẽ bị phê phán đó là khi nhà lịch sử văn học nói lời phán xét giá trị về những tác phẩm của các thời đại đã qua, tốt hơn hết anh ta dựa vào tư tưởng khách quan hóa của ngành viết sử; cần phải mô tả điều gì đó như nó đã xảy ra thật sự. Sự kiềm chế thẩm mỹ này tất nhiên là có nguyên nhân của nó: Chất lượng và thứ bậc của một tác phẩm văn học nhất định không phụ thuộc vào tiểu sử hoặc xuất xứ lịch sử, và không chỉ phụ thuộc vào vị trí của nó trong trật tự của sự phát triển thể loại, mà còn phụ thuộc vào các chuẩn cứ khó có thể nắm bắt của sự ảnh hưởng tiếp nhận và đời sống sau đó. Nếu nhà lịch sử văn học có cam kết với tư tưởng khách thể hóa, chỉ chú ý mô tả các thời kỳ đã khép lại, trao việc đánh giá nền văn hóa của thời đại mình còn chưa khép lại cho các nhà phê bình, trong khi bản thân anh ta duy trì quy tắc đáng tin cậy của "các tác phẩm bậc thầy", thì anh ta sẽ tụt hậu sau giai đoạn phát triển mới nhất của văn học mất một hai thế hệ do sự duy trì triển vọng lịch sử, anh ta chỉ gặp những hiện tượng văn học của thời đại mình như một người đọc thụ động, và trong việc xây dựng ý kiến phán xét về những hiện tượng văn học đó anh ta trở thành kẻ ăn bám của lối phê bình văn học mang dấu ấn "phi khoa học" ngay trong chính nó. Vậy thì ngày nay công việc nghiên cứu văn học theo quan điểm lịch sử để làm gì, một hoạt động mà như định nghĩa cổ điển của Friedrich Schiller về sự quan tâm đến lịch sử, là không có khả năng hứa hẹn nhiều bài học cho những "suy tư", tấm gương để bắt chước cho "người hoạt động thực tiễn", kết luận quan trọng cho "người thông thái"; là tất cả, nhưng không phải là "nguồn giải trí sang trọng nhất" đối với "người đọc".
2
Các trích dẫn là để cho những suy tư khoa học có chỗ dựa bằng những lý lẽ có uy tín. Nhưng chúng cũng có thể làm cho chúng ta nhớ lại một vấn đề đặt ra trước đây, cho thấy rằng câu trả lời cổ điển cho vấn đề đó không đầy đủ đến mức nào, rằng bản thân vấn đề đặt ra cũng đã trở thành lịch sử ra sao, và nhiệm vụ của chúng ta là phải đổi mới cả vấn đề đặt ra lẫn câu trả lời. Trong bài phát biểu ngày 26 tháng Năm 1789, Schiller đã trả lời cho chính vấn đề mà ông đặt ra: Về mục địch và ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử thế giới. Bài nói chuyện không chỉ đặc trưng cho quan niệm lịch sử của chủ nghĩa duy tâm Đức, mà còn rọi ánh sáng phê bình lên lịch sử khoa học: nó cho thấy khoa viết lịch sử văn học thế kỷ 19 đã phải đáp ứng sự chờ đợi như thế nào khi mà nó phải cố gắng chạy đua với khoa viết lịch sử để thực hiện được di sản của triết học lịch sử duy tâm. Đồng thời nó cũng chỉ ra là tại sao tư tưởng nhận thức của trường phái lịch sử đã phải sụp đổ một cách tất yếu, và cùng với nó là khoa viết lịch sử văn học. Gervinus sẽ là nhân chứng tiêu biểu nhất của chúng ta: Không chỉ vì ông là người viết cuốn lịch sử văn học đầu tiên, Lịch sử thơ ca và văn học dân tộc Đức (1835 - 1942), mà còn vì ông là nhà ngữ văn đầu tiên (và duy nhất) viết về phương pháp luận viết lịch sử. Tác phẩm Những nét cơ bản của phương pháp luận lịch sử của ông đã phát triển thành lý luận quan điểm của Wilhelm von Humboldt, trong công trình Nhiệm vụ của nhà viết sử viết năm 1821. Gervinus đã lập luận bằng lý luận đó rằng việc viết lịch sử văn học cũng là nhiệm vụ quan trọng biết chừng nào. Nhà nghiên cứu lịch sử văn học chỉ trở thành nhà viết sử, "nếu trong khi nghiên cứu đối tượng của mình anh ta nhận ra cái tư tưởng cơ bản xuyên suốt các trường hợp mà anh ta nghiên cứu, nó biểu hiện trong các trường hợp đó và đưa chúng vào mối liên hệ với những sự kiện của thế giới". Cái tư tưởng chủ đạo này đối với Schiller chỉ mới như là nguyên lý thần học dùng để hiểu sự tiến bộ của lịch sử thế giới nhân loại, còn ở Humboldt thì nó đã xuất hiện như là biểu hiện riêng biệt của "tư tưởng của cá nhân thuộc về dân tộc. Khi Gervinus tiếp nhận "sự lý giải tư tưởng này" của lịch sử, một cách kín đáo, ông đã đưa "tư tưởng lịch sử" của Humboldt vào phục vụ tư tưởng dân tộc: lịch sử văn học dân tộc Đức cần phải cho thấy "người Đức lại xuất phát như thế nào với ý thức tự do trên con đường mà những người Hy Lạp đã dẫn dắt nhân loại tới sự hiểu biết, cái con đường luôn cuốn hút đối với người Đức do những đặc điểm riêng của họ. Tư tưởng phổ quát của triết học lịch sử khai sáng rơi vãi lên lịch sử nhiều vẻ của những đặc trưng dân tộc, để rồi cuối cùng nó phải bó hẹp ở huyền thoại văn học theo đó những người Đức mới có đủ tư cách tiếp nhận di sản đích thực của người Hy Lạp, vì cái lợi ích của tư tưởng mà để thực hiện nó "chỉ người Đức mới phù hợp mà thôi".
Cái quá trình mà chúng tôi đã làm sáng tỏ qua ví dụ của Gervinus, không chỉ đặc trưng cho lịch sử tinh thần thế kỷ 19. Có một sự hàm ý thuộc về phương pháp luận đã trở nên rõ ràng đối với khoa viết lịch sử văn học và khoa viết sử ngay trong giấy phút mà mô hình thần học của triết học lịch sử duy tâm bị trường phái lịch sử xem thường. Sau khi gắn cho nó tính phi lịch sử, người ta đã vứt bỏ phương pháp tiếp cận của triết học lịch sử, theo đó diễn biến của các sự kiện được nhìn nhận từ mục đích nào đó của lịch sử thế giới, "từ đỉnh điểm duy tâm" thì làm sao có thể hiểu và mô tả được trên toàn thể các mối liên kết lịch sử không thể nắm bắt? Như vậy tư tưởng lịch sử phổ quát - nói theo lời của H. G. Gadamer - trở thành vấn đề nan giải của nghiên cứu lịch sử. Theo cách nói của Gervinus thì người viết lịch sử chỉ có thể mô tả được hàng loạt các sự kiện đã xong xuôi, bởi vì anh ta chỉ có thể phán xét nếu cũng biết được kết cục cuối cùng. Lịch sử dân tộc chỉ có thể xem là loạt sự kiện đã xong xuôi nếu - xét từ quan điểm chính trị - người ta đã trải qua giây phút hòa hợp dân tộc, hoặc - từ quan điểm văn học - đạt đến đỉnh điểm của nền văn học cổ điển dân tộc. Nhưng sự tiếp tục "sau kết thúc" không thể tránh khỏi việc lại phải đặt ra tình trạng khó xử xa xưa của nó. Rút cuộc do cần thiết, Gervinus đã có ưu điểm khi ông quan niệm một cách đơn giản nền văn học hậu cổ điển của thời đại mình như là dấu hiệu của sự suy thoái. Đây là sự gặp gỡ kỳ lạ với lời tiên đoán của Hegel "về sự kết thúc của một thời kỳ nghệ thuật". Gervinus còn có lời khuyên cho "những tài năng đã đánh mất mục đích" rằng họ hãy đến với những vấn đề của thế giới hiện thực và của nhà nước.
Nhà viết sử cam kết theo chủ nghĩa lịch sử có vẻ như tránh được tình trạng khó xử của sự kết thúc lịch sử đồng thời là sự tiếp tục của nó khi mà anh ta chỉ làm công việc mô tả các thời kỳ, và chỉ chú ý đến chúng ở những "chi tiết kết thúc", không quan tâm tới sự tiếp tục của chúng. Lịch sử như là sự mô tả các thời kỳ, điều này có vẻ như tư tưởng phương pháp luận của chủ nghĩa lịch sử đã hình thành. Tư tưởng này vẫn còn từ dạo đó: Khi mà lịch sử văn học không thấy sự phát triển của các đặc điểm dân tộc đầy đủ như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, nó lần lượt nêu lên các thời kỳ đã khép lại. "Cái nguyên tắc cơ bản của phương pháp viết sử mà theo đó nhà viết sử phải cách xa đối tượng của mình để nó có thể xuất hiện một cách khách quan trọn vẹn đối với anh ta" có thể được duy trì một cách dễ dàng nhất bằng việc chúng ta quan niệm một thời kỳ như là khối tri thức xa xôi, cá biệt. Nếu "sự khách thể hóa trọn vẹn" đòi hỏi người viết sử bỏ qua quan điểm của thời đại mình thì giá trị và ý nghĩa của một giai đoạn đã qua cũng cần phải nhận biệt được một cách độc lập với diễn biến sau đó của lịch sử. Những lời nổi tiếng của Ranke nói năm 1845 đã xác lập cơ sở của định đề thần học: "Nhưng tôi khẳng định rằng tất cả mọi thời kỳ đều là của Thượng đế một cách trực tiếp, và giá trị của nó không phải ở thành quả, mà có ở sự tồn tại của nó, trong chính bản thân nó". Để trả lời câu hỏi cũ, rằng chúng ta phải lý giải như thế nào khái niệm "sự tiến bộ" lịch sử, nhà nghiên cứu lịch sử được giao cho nhiệm vụ của một thuyết biện thần mới, trong khi mô tả "mọi thời kỳ bằng việc phủ lên nó giá trị độc lập", anh ta điều khiển Thượng đế trước triết học lịch sử của sự tiến bộ, xem từng thời kỳ lịch sử chỉ là những nấc thang phục vụ các thế hệ tiếp theo. Và với việc đó, Ranke giả thiết về sự ưu việt của hậu thế, về "sự bất công của Thượng đế". Ranke chỉ thành công trong việc giải quyết vấn đề tồn tại của triết học lịch sử với cái giá là ông ta đã chấm dứt các mối liên hệ giữa quá khứ lịch sử và hiện tại - tức là "thời kỳ lịch sử thật sự" và "kết quả của nó". Khi chủ nghĩa lịch sử xa lánh triết học lịch sử khai sáng thì nó không chỉ hi sinh cái cấu trúc thuộc về thần học của lịch sự phổ quát, mà cả nguyên lý phương pháp luận mà - theo Schiller - nó đặc trưng cho nhà sử học phổ quát và phương thức thao tác của anh ta là "nối liền quá khứ và hiện tại". Trường phái lịch sử không thể bỏ qua một cách vô sự nhận thức quan trọng và có vẻ tư biện này, giống như sự phát triển tiếp tục của lịch sử văn học cũng cho thấy điều đó.
Thành tựu của khoa viết lịch sử văn học thế kỷ 19 thất bại hay thành công tùy thuộc vào việc có niềm tin mạnh mẽ như thế nào ở "phần không thể thấy" của mọi dữ kiện như là tư tưởng về đặc trưng dân tộc, và tư tưởng này có thể giúp mô tả được "hình thức lịch sử" qua các tác phẩm văn học. Niềm tin này mờ nhạt như thế nào thì "sợi dây của các sự kiện" cũng mất đi ý nghĩa của nó như thế, và nền văn học của quá khứ và hiện tại cũng chịu những phán xét khác nhau, việc lựa chọn, xác định hay đánh giá các dữ kiện văn học cũng trở thành vấn đề. Trước hết sự khủng hoảng này gây nên bước ngoặt hướng về Chủ nghĩa thực chứng. Khoa viết lịch sử văn học theo chủ nghĩa thực chứng đã thể nghiệm các phương pháp chính xác của khoa học tự nhiên. Kết quả thì ai cũng biết: sự vận dụng nguyện lý nhân quả vào việc nghiên cứu lịch sử văn học chỉ mang lại những đặc điểm xác định bề ngoài, thổi phồng lối nghiên cứu nguồn gốc, và xếp những đặc điểm làm phân biệt các tác phẩm văn học vào phạm vi có thể mở rộng của "các ảnh hưởng" theo sở thích.
Sự phản đối không phải chờ đợi lâu. Lịch sử tinh thần đã đưa văn học vào quyền uy của nó, đem đối lập mỹ học sáng tạo phi lý với lối giải thích theo nguyên lý nhân quả - lịch sử, tìm kiếm các mối liên hệ văn học trong những tư tưởng và môtíp cố định. Cứ như vậy, nước Đức bị cuốn vào công cuộc chuẩn bị và xác lập một ngành khoa học văn học xã hội dân tộc nhân dân. Ngành khoa học này đã bị các phương pháp mới sau chiến tranh thay thế, các phương pháp này đã hoàn thành quá trình tẩy rửa tư tưởng nhưng không đảm nhận lại nhiệm vụ cổ điển là viết lịch sử văn học. Lối mô tả lịch sử văn học xảy ra trong mối liên hệ với lịch sử thực dụng đã nằm ngoài phạm vi quan tâm của lịch sử khái niệm - tư tưởng mới và lối nghiên cứu truyền thống nảy nở trên dấu vết của trường phái Warburg. Nghiên cứu theo lịch sử khái niệm tư tưởng mới muốn bí mật đổi mới lịch sử triết học thông qua văn học; còn nghiên cứu truyền thống theo trường phái Warburg thì lại trung hòa thực tiễn đời sống lịch sử bằng việc tìm kiếm "sức nặng của tri thức trong cội nguồn truyền thống hoặc trong tính chất liên tục phi thời gian của truyền thống, chứ không phải trong sự tồn tại một lần của một hiện tượng văn học nhất định. Người nào tìm cái còn lại trong sự biến đổi thường xuyên thì người đó tránh được cho mình những nỗi đau của sự thấu hiểu lịch sử về sau. Tính liên tục được nâng lên thành tư tưởng cao nhất của di sản cổ đại xuất hiện trong tác phẩm đồ sộ của E. R. Curtius như là sự căng thẳng chưa chứng minh được về mặt lịch sử, nhưng bắt rễ trong truyền thống văn học, giữa sự sáng tạo và bắt chước, nền thơ lớn và văn học giản đơn. Nói theo lời Curtius, những tác phẩm cổ điển bậc thầy, không có tuổi bay trên "mắt xích truyền thống không thể tách rời của sự tầm thường", bỏ lại sau nó lịch sử.
Khó có thể nối liền khoảng cách giữa quan điểm lịch sử và quan điểm thẩm mỹ giống như việc tách biệt thơ và không phải thơ một cách vô lý trong lý luận văn học của B. Croce. Mâu thuẫn giữa thơ ca thuần túy và nền văn học gắn liền với thời đại chỉ giải tỏa được khi người ta nghi ngờ nền mỹ học làm cơ sở cho nó và nhận ra rằng mâu thuẫn giữa sự sáng tạo và bắt chước chỉ đặc trưng cho nền văn học của thời kỳ nghệ thuật nhân văn, nhưng lại không có khả năng nắm bắt được những hiện tượng văn học của thời đại mới cũng như của thời trung đại. Xã hội học văn học và phương pháp nội quan đều có từ trường phái thực chứng và duy tâm, cả hai đã khoét sâu hơn cái hố ngăn cách giữa lịch sử và văn học. Tất cả những việc đó được bộc lộ rõ nét nhất trong cuộc đối đầu giữa lý luận văn học mác xít và lý luận hình thức chủ nghĩa...
3
Tôi diễn đạt vấn đề bằng việc kêu gọi khoa học văn học hãy nghiên cứu lại vấn đề của lịch sử văn học vẫn chưa được giải quyết trong cuộc tranh luận giữa phương pháp mác xít và phương pháp hình thức. Cái thể nghiệm mà tôi dùng để nối liền hố sâu ngăn cách giữa văn học và lịch sử, tức là giữa nhận thức lịch sử và nhận thức thẩm mỹ, có thể bắt đầu ở nơi mà cả hai trường phái kia khựng lại. Các phương pháp của họ nắm bắt dữ kiện văn học trong phạm vi khép kín của (mỹ học mô tả) một tác phẩm, và với việc đó chúng loại bỏ mất một khía cạnh liên quan khăng khít với tính chất thẩm mỹ và chức năng xã hội của văn học: đó là khía cạnh ảnh hưởng và tiếp nhận. Người đọc, người nghe, và người xem, nói ngắn gọn là công chúng, đóng vai trò hết sức hạn chế trong cả hai trường phái lý luận nhắc đến trên đây. Mỹ học mác xít chính thống đối xử với người đọc - nếu có để ý - cũng giống như với tác giả: hoặc là nghiên cứu vị trí xã hội của anh ta, hoặc là xác định vị trí đó từ sự phân tầng xã hội được mô tả. Trường phái hình thức thì chỉ cần đến người đọc như là chủ thể quan sát, người - theo sự chỉ dẫn của văn bản - cần phải phân biệt hình thức hoặc phải nhận ra thao tác. Người ta gán cho người đọc cái khả năng quan sát thuộc về lý thuyết của một nhà ngữ văn, người có thể nói năng với sự hiểu biết các công cụ nghệ thuật. Trường phái mácxít thì đưa ngay kinh nghiệm trực tiếp của người đọc lên trình độ tương ứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử, như thể cần phải che dấu mối quan hệ hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc trong tác phẩm văn học. Nhưng - theo lời Walther Bulst - "không bao giờ người ta viết ra một văn bản nào chỉ để cho các nhà ngữ văn đọc và lý giải về mặt ngữ văn", hay nhà sử học lý giải về mặt sử học. Cả hai phương pháp đều làm lạc hướng người đọc đã đưa vào đích - bởi vì tác phẩm văn học trước hết là để nói với người đọc -, và không cho phép người đọc thực hiện thành công cái vai trò dành cho anh ta mà đối với việc nhận thức thẩm mỹ và lịch sử thì từng người một là không thể chuyển nhượng. Bởi vì nhà phê bình, người phê bình một quyển sách mới; nhà văn, người sáng tạo một tác phẩm khác với những tác phẩm trước đây, với những chuẩn mực tích cực hay tiêu cực; nhà nghiên cứu lịch sử văn học, người tìm kiếm lời giải thích lịch sử hay vị trí của một tác phẩm đã cho trong truyền thống; tất cả họ trước hết là những người đọc, chỉ có quan hệ phản ứng của họ với văn học là hoạt động theo cách của nó. Trong cái tam giác tác giả, tác phẩm và người thưởng thức, thì người thưởng thức không phải là phần sáng tạo thụ động hay chỉ là mắt xích đơn giản của hoạt động tiếp nhận, mà chính là năng lượng tạo thành lịch sử. Sự tồn tại lịch sử của tác phẩm văn học không thể có được nếu thiếu sự tham dự tích cực của người đọc, bởi vì chỉ bằng sự chuyển tiếp này thì tác phẩm mới thâm nhập được vào dòng chảy liên tục phía sau thuộc về kinh nghiệm đang thay đổi, nơi mà sự tiếp nhận đơn giản, thụ động trở thành sự tiếp nhận có phê phán, chủ động; những chuẩn mực thẩm mỹ đã được công nhận trở thành tác phẩm mới, mới hơn. Tính chất lịch sử và giao tiếp của văn học đặt ra mối quan hệ đối thoại mới mang tính quá trình giữa tác phẩm văn học, người đọc và tác phẩm mới. Chúng ta có thể nắm bắt mối quan hệ này trong các mối liên hệ của việc hỏi và đáp, vấn đề và giải pháp. Cần phải mở rộng phạm vi khép kín của mỹ học tác phẩm và sự mô tả được xem là không gian vận động chính của phương pháp luận khoa học văn học từ trước tới nay thành mỹ học tiếp nhận và ảnh hưởng, bởi vì chỉ như vậy thì chúng ta mới tìm thấy giải pháp mới cho vấn đề là làm thế nào để có thể nhận biết được sự tiếp nối lẫn nhau về mặt lịch sử của các tác phẩm văn học như là sự liên kết lịch sử văn học.
Triển vọng của mỹ học tiếp nhận không chuyển tiếp giữa sự tiếp nhận thụ động và sự am hiểu chủ động, giữa kinh nghiệm sáng tạo chuẩn mực và những tác phẩm mới. Nếu đưa bối cảnh của sự đối thoại bảo đảm tính liên tục của tác phẩm và công chúng ra sau lịch sử văn học thì chúng ta thường xuyên thấy mâu thuẫn của những khía cạnh thẩm mỹ và lịch sử, và điều đó làm xuất hiện sợi dây liên hệ giữa các hiện tượng văn học xa xưa và những kinh nghiệm hiện tại mà chủ nghĩa lịch sử đã cắt đứt. Mối quan hệ giữa người đọc và văn học đều có những hàm ý thẩm mỹ và lịch sử. Hàm ý thẩm mỹ có nghĩa là trong việc tiếp nhận lần đầu một tác phẩm đã có sự đánh giá giá trị thẩm mỹ, do người đọc so sánh tất cả với những gì đã đọc trước đó. Hàm ý lịch sử thể hiện qua việc ấn tượng của những người đọc đầu tiên được tiếp nối như là dây xích tiếp nhận từ thế hệ này qua thế hệ khác, nó có thể phong phú lên, thậm chí có những trường hợp nó đánh đổ giá trị thẩm mỹ và ý nghĩa lịch sử của một tác phẩm. Trong quá trình lịch sử tiếp nhận này - mà lịch sử văn học chỉ có thể loại bỏ chính nó bằng việc bỏ qua những điều kiện hướng dẫn sự hiểu và sự phán xét - đồng thời với việc tiếp nhận lại những tác phẩm của quá khứ là sự chuyển tiếp thường xuyên ý nghĩa thời sự và hiệu lực truyền thống của văn học. Giá trị của lịch sử văn học có nền tảng là mỹ học tiếp nhận phụ thuộc vào việc nó có khả năng tham gia tích cực đến mức nào vào quá trình làm cho những kinh nghiệm thẩm mỹ liên tục chiếm lĩnh quá khứ. Đối diện với chủ nghĩa khách quan của khoa nghiên cứu lịch sử văn học thực chứng, lịch sử văn học lấy mỹ học tiếp nhận làm cơ sở này đòi hỏi sự sáng tạo nên một hệ thống quy tắc có ý thức, - ngược lại với lối nghiên cứu truyền thống cổ điển - đề ra việc xem xét phê phán những quy tắc văn học để lại, cũng có thể là hủy bỏ chúng. Mỹ học tiếp nhận xác định một cách rõ ràng tiêu chí của sự sáng tạo quy tắc và sự cần thiết viết lại lịch sử văn học. Con đường từ lịch sử tiếp nhận từng tác phẩm đến lịch sử văn học cần phải tạo điều kiện để chỉ ra phương thức mô tả và cái nhìn tiếp nối lẫn nhau về mặt lịch sử của các tác phẩm để từ đó thấy rõ sự liên kết phụ thuộc cơ bản của văn học đối với chúng ta, rằng trật tự quyết định tiền sử của những kinh nghiệm hiện tại của chúng ta.
Đây là những xuất phát điểm mà về cơ bản trong bảy định đề (4-10) tôi sẽ cố gắng trả lời cho câu hỏi: ngày nay về mặt phương pháp luận cho phép viết lại lịch sử văn học như thế nào.
Trương Đăng Dung
dịch từ bản tiếng Hungary của Bernáth Csilla, Budapest, 1999
(Còn nữa)