Ngô Tự Lập -
Jean Sary không phải là người nước ngoài đầu tiên yêu thích và dịch thơ Hồ Xuân Hương. Với những bài thơ táo bạo, kết hợp tài tình trí tuệ và nhục cảm, Bà chúa thơ Nôm là một trong những nữ sĩ độc đáo nhất của VN và thế giới.
Trong danh sách những người hâm mộ bà có những cái tên lừng lẫy như R. Tagore, H. Lopes (nhà văn, cựu Thủ tướng Congo), và không thể không nhắc đến M. Durand, nhà Việt Nam học lỗi lạc, tác giả cuốn "L'oeuvre de la poétesse vietnamienne Hồ Xuân Hương" (Sự nghiệp của nữ sĩ Việt Nam Hồ Xuân Hương) dang dở. Xin nói thêm, Jean Sary coi việc dịch thơ Hồ Xuân Hương một cách tưởng nhớ Maurice Durand.
Dịch thơ Hồ Xuân Hương sang các thứ tiếng phương Tây, là công việc mạo hiểm. Khó khăn dễ thấy là sự khác biệt ngôn ngữ và văn hoá, trong khi nét độc đáo của Hồ Xuân Hương là nghệ thuật chơi chữ và ẩn dụ: sau mỗi từ, mỗi sự vật của bà thường có một từ, một sự vật khác, gắn liền với thân thể và nhục cảm. Thành thử, ẩn sau mỗi bài thơ của bà là một bài thơ khác, vừa rõ ràng vừa không thể nắm bắt. Làm sao dịch được điều đó?
Nhưng còn có một khó khăn khác. Trong thế kỷ XX, ở phương Tây, "cách mạng tình dục", và trong chừng mực nào đó cả phong trào nữ quyền, dường như đã phá bỏ mọi cấm kỵ. Người ta đã tận hưởng, phơi bày, khai thác hết, nếu không nói là thái quá, mọi khía cạnh liên quan đến nhục dục. Nhiều chuyện khó nói đã thành chuyện thường ngày, nhiều từ tục tĩu đã thành từ cửa miệng. Khi ngay cả những bài thơ nhục dục phơi bày của Pierre Lous - nhà thơ, nhà văn Pháp - cũng đã trở nên "nhẹ cân", vậy - liệu nhục cảm tinh tế và nghệ thuật biểu đạt xa xôi (l'art du détour) của Hồ Xuân Hương có thể gây xúc động cho người đọc?
Những bản dịch của Jean Sary trong tạp chí IF (Marseille, số 25, 2004) là câu trả lời khẳng định. Nhưng anh đã phải làm rất nhiều để có được câu trả lời đó. Anh đã bỏ nhiều năm học tiếng Việt để cảm được âm nhạc và sự tinh tế của nó.
Điều này thấy rõ trong phần chú giải. Chẳng hạn, anh giải thích câu "Dao cầu/ thiếp/ biết/ trao/ ai nhỉ": "Ngoài ẩn dụ về chiếc dao cầu của ông lang, tác giả còn thêm vào một cách chơi chữ: nếu đổi dấu thanh của chữ thứ hai, ta sẽ có dao cấu, đọc như giao cấu". Nếu lưu ý rằng quê Hồ Xuân Hương ở Nghệ An, chúng ta sẽ thấy lý giải của Jean Sary rất thú vị.
Hay khi anh viết về những "từ ấn tượng" (l'impressif): "Trong bài Hang Cắc Cớ, ta phải hiểu từ phập phòm như thế nào? Nhìn chung, nó mô tả tiếng sóng. Nhưng, đó cũng là tiếng gió quất vào cành thông. Chữ "phập" mô tả một cú đâm dứt khoát, tựa như tiếng mũi tên cắm gọn vào bia. Nhưng bạn nghe thấy hay nhìn thấy? Bạn nhìn thấy. Nó có vẻ nghiêng về thị giác. Còn chữ "phòm" lại nghiêng về thính giác. Nó không thể đứng riêng rẽ, mà đóng vai trò một hậu tố. Thanh huyền của nó dường như mô phỏng một tiếng thở dài. Của gió? Không, của cây thông ngất ngưởng trong gió bão".
Jean Sary cũng là một nhà thơ, nhờ vậy, anh tìm được cách biểu đạt tương đương trong tiếng Pháp mà không bị cầm tù bởi những hình ảnh và cách biểu đạt trong nguyên bản - điều gần như không thể tránh khỏi ở các bản dịch do người Việt thực hiện. Nhiều chỗ, anh tránh được lối nói "chắc như đinh đóng cột" của các thứ tiếng tổng hợp châu Âu và tìm được hình thức biểu đạt khá gần gũi với tiếng Việt - một ngôn ngữ phân tích.
Chẳng hạn, hai câu "Mỏng dày chừng ấy chành ba góc/ Rộng hẹp đường nào cắm một cay" được anh dịch như sau: "Mince épais il s'ouvre son triangle impeccable/ Large étroit quelque forme on enfonce un tenon", hay câu "Hồng hồng má phấn duyên vì cậy/ Chúa dấu vua yêu một cái này" được anh dịch: "Peau rosée joues rouges encollées de kaki/ Le Roi aime et la Cour vénère pour la chose".
Tuy nhiên, việc Jean Sary chọn hình thức thơ tự do gần với thơ văn xuôi để dịch bài Quan Thị, theo tôi, không thật đắc địa. Không phải là anh không biết rằng bài Quan Thị có hình thức thơ Đường. Cũng không phải anh không biết các đặc điểm của thơ Đường luật - anh đã dành hẳn một mục để giải thích các đặc điểm của nó.
Rõ ràng, anh định tìm một lối biểu đạt khác. Nhưng anh đã quên rằng vẻ đẹp thơ Hồ Xuân Hương còn ở sự tương phản giữa niêm luật chặt chẽ của thơ Đường với sự phóng túng trong ý tưởng và khả năng dường như vô hạn của tác giả trong việc vượt thoát khỏi nhà tù hình thức.
Trong chú giải cuối cùng, Jean Sary viết nửa đùa nửa thật rằng trong tiếng Việt "dịch" vừa có nghĩa là "dịch thuật" vừa có nghĩa là "dịch bệnh", và hy vọng bản "dịch" của anh sẽ không bị nằm trong vòng "kiểm dịch" mà lây nhiễm đến nhiều người.
Dĩ nhiên, anh mắc dịch đầu tiên. Tôi tin rằng tình yêu đối với Hồ Xuân Hương là một "căn bệnh mãn tính".
(Nguồn: Lao động)