Nguyễn Thị Thanh Thủy
Sự vĩ đại của dân tộc không chỉ thể hiện trên phương diện hào hùng của những trang sử vẻ vang với những chiến công oanh liệt, mà còn vĩ đại trong những nỗi đau, giọt nước mắt của đắng cay và mất mát. Không đơn giản xuôi chiều khi phản ánh lịch sử dân tộc, Trần Anh Thái đã góp thêm cái nhìn sâu sắc, toàn diện khi nói về sự vĩ đại của nhân dân, không chỉ anh hùng trong chiến thắng mà cao hơn là sự vĩ đại trong những hi sinh, mất mát.
Đi qua cuộc chiến tranh, hiện thực lịch sử đã được các tác giả trường ca giai đoạn trước khắc họa một cách chân thực, sâu sắc. Các nhà thơ từng đau nỗi đau mất bạn bè đồng chí, người thân, trở về cuộc sống thời bình họ lại tiếp tục đau nỗi đau của những bi kịch thời hậu chiến, những số phận con người, những mảnh đời đau thương không thể hàn gắn... tất cả trở thành nỗi ám ảnh, niềm day dứt đau đáu trong tâm can họ. Tuy nhiên, trong các trường ca trước đây của Thanh Thảo, Thu Bồn, Hữu Thỉnh... giọng điệu trầm lắng, đau thương vẫn chưa phải là "chủ âm" chính của bản giao hưởng, mà đó là biểu hiện của sự mở rộng biên độ phản ánh hiện thực rộng lớn và chân thực của các tác phẩm. Nhưng đến trường ca Trần Anh Thái, giọng điệu trầm lắng, xót thương là nốt "chủ âm" hiện lên quằn quại trên từng con chữ, bởi hiện thực khắc nghiệt được phản ánh.
Sự độc đáo tạo nên độ sâu lắng của trường ca Trần Anh Thái là nỗi ám ảnh về thân phận con người. Có thể nói, từ trước tới nay chưa có trường ca nào nỗi day dứt về con người lại ám ảnh thường trực như trong các trường ca của Trần Anh Thái. Từ những thân phận bé nhỏ, cụ thể, yếu đuối, lam lũ trong hành trình dựng làng, khởi đất (Đổ bóng xuống mặt trời) đến những số phận, cuộc đời trong hành trình kiếm tìm và giải mã về số phận người lúc Trên đường, cho tới những con người, những số phận đang hướng về Ngày đang mở sáng, với những dáng vẻ khác nhau, nhưng tất cả hiện lên trong những khúc ca của anh đều rất riêng tư, rất thẳm sâu trong cõi người. Có thể thấy ở những trường ca này, "những bi kịch cá nhân luôn tồn tại song hành cùng bi kịch của lịch sử và thông qua những số phận ấy, người ta thấy hiện lên dáng vẻ, bóng hình của dân tộc, của thời đại, của nhân loại nói chung trong hành trình tồn sinh và không ngừng khai sáng, trong sự vận động từ tăm tối, khổ nhọc, đau thương vươn tới ánh sáng của sự sống, tự do và hi vọng" .
Viết về nỗi đau của dân tộc, trong các trường ca trước đây, các nhà thơ đã khắc họa chân thực, sâu sắc những mất mát, đau thương qua những câu thơ thấm trải nỗi đau của chính những người lính từng đi qua cuộc chiến: Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Trần Mạnh Hảo... Nhưng đến Trần Anh Thái, nỗi đau ấy đã trở thành "thương tích", xoi buốt thường trực trong dòng hồi ức của nhà thơ, day dứt đời sống hiện tại và trở thành nỗi ám ảnh lương tri con người bởi nó tồn tại trong chiều sâu tâm thức.
Chiến tranh trong các trang viết của anh hiện lên bao trùm là nỗi đau, sự ám ảnh về cái chết: "Tôi nghe lạnh giữa hai bờ cuộc chiến / Cái chết nối hàng cái chết tiễn đưa nhau". Sự khốc liệt của chiến tranh dội vang trên từng nhịp điệu nhanh, mạnh và gãy khúc ở những chương, khúc V, VI (Ngày đang mở sáng), ở những cấu trúc điệp dồn, chẳng hạn: "Như không thấy gì / Như không tồn tại / Như không có bạn / Như không có người". Ám ảnh trong hồi tưởng, ký ức của nhà thơ là tiếng đạn bom dữ dội gào rít rung trời. Nếu ở Đổ bóng xuống mặt trời, mạch thơ vẫn là sự tiếp tục mạch thơ trong các trường ca truyền thống, thì Ngày đang mở sáng là sự kết tinh những cảm xúc thăng hoa và là sự phát triển cảm hứng sáng tạo của nhà thơ. Ở đây, sức mạnh hủy diệt của chiến tranh hiện lên qua từng lớp hình ảnh được cắt chụp, lồng ghép trong dòng hồi ức của tác giả. Những câu thơ viết về chiến tranh trong trường ca Trần Anh Thái chất chứa bao niềm xót xa, quặn thắt bởi giọng thơ thẫm đẫm nỗi đau sâu lắng. Tuy chiến tranh đã lùi xa, nhưng những câu thơ viết về chiến tranh của anh vẫn rất mới, bởi hiện thực phản ánh trong tác phẩm được nhà thơ thể hiện bằng cảm quan nghệ thuật mới mẻ với cái nhìn mới đa chiều hơn, nhân bản và người hơn.
Bi kịch con người thời hậu chiến từng được văn học sau những năm 80 nhìn lại và khắc họa, đến trường ca Trần Anh Thái ta càng thấu tận tâm can cái giá của chiến thắng mà dân tộc phải trả là quá "đắt'; đó là máu, nước mắt và sự hy sinh, mất mát quá lớn. "Để có "ngày về" bao nhiêu đồng đội đã phải nằm lại, đã có bao cuộc đời, bao nhiêu mối tình, bao nụ cười dang dở...". Bởi vậy, trong những hồi tưởng về chiến tranh, không ít lần trong sâu thẳm cõi lòng nhà thơ run lên những câu thơ nhức nhối: "Cây vàng mã mua cất vào góc tủ / Chị sợ đốt rồi hương khói biết bay đâu?".... Mất người thân nhưng có một nấm mồ để thắp hương còn là may mắn. Người chị trong câu thơ bất hạnh hơn vì không có được nấm mồ của người thân, không biết thắp hương vào đâu trong ngày giỗ tết...nỗi đau còn gì lớn hơn thế? Song cái chính là giá trị nhân bản ở trường ca Trần Anh Thái. Nhà thơ nhìn thấy "sự vĩ đại của dân tộc mình chính trong những giọt nước mắt, từ những người vợ vọng phu, qua sự cao khiết của nỗi buồn". Sự sâu sắc của giọng điệu thơ đã cho thấy cách nhìn và đánh giá hiện thực trong trường ca Trần Anh Thái mang một cảm quan nghệ thuật mới, sắc lạnh hơn, nhân bản hơn, thế nên Thanh Thảo đã nhận xét về trường ca Trần Anh Thái là một "trường ca kiểu khác", khác với thế hệ Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh...
Cái mới trong trường ca Trần Anh Thái khiến cho giọng điệu trầm lắng, xót thương và cái bi trở thành "nốt âm" chủ đạo là sự khắc khoải của nỗi buồn, sự xót thương hiện lên hữu hình, "hắt lên thành không gian nghệ thuật". Và đặc biệt hơn, không gian ấy trong các tác phẩm tồn tại trong tâm thức con người, là không gian tâm linh thể hiện qua những hình ảnh mang tính biểu tượng thiêng liêng trong tâm thức người Việt:"ban thờ nhà", "khói hương", "đỉnh thờ", "tàn tro", "lửa"... Cách phản ánh hiện thực này tạo cho câu thơ của Trần Anh Thái có sức lay động, ám ảnh và vang xa.
Sự thâm u trong thế giới nghệ thuật của anh còn ám ảnh bởi sự cộng hưởng của những tiếng vọng, những âm thanh cuộc sống trải ngấm trong từng khoảnh khắc thời gian, trong sự chiêm nghiệm và day dứt của cái tôi trữ tình. Bởi vậy, hiện thực cuộc sống trong các trường ca Trần Anh Thái là thứ hiện thực day dứt, ám ảnh. Xây dựng cái tôi trữ tình mang tính nghiệm sinh, Trần Anh Thái đã tạo nên sự biến tấu trong giọng điệu trường ca, bởi tác phẩm của anh có một kiểu kết cấu "lạ". Trong các trường ca trước đây, mặc dù có sự gia tăng vượt trội của yếu tố trữ tình làm cho việc miêu tả tâm trạng sâu sắc, chân thực và sắc lạnh hơn, tuy nhiên ở những trường ca này, tâm trạng vẫn thường được miêu tả gắn với sự kiện. Còn ở trường ca Trần Anh Thái, đối tượng mà tác phẩm hướng tới không phải là thế giới khách thể mà chính là chủ thể, là cái tôi trữ tình của nhà thơ. Do vậy, nỗi buồn, sự cô đơn nổi rõ trong các khúc ca của anh. Với cảm hứng trên đường, cái tôi trữ tình khao khát hướng tới khám phá bản thể, lật xới tất cả cõi vô cùng để tìm lời giải đáp cho những vấn đề số phận, cuộc đời con người. Đằm trải trong cô đơn và hoài nghi, thế giới thực tại không đủ để cái tôi cảm nghiệm, "tôi" chìm đắm vào thế giới của những cơn mơ, siêu thoát trong cõi vô cùng của những miền hân hoan tưởng tượng, khao khát chiếm lĩnh thế giới vô biên, khát vọng tự do và giải thoát.
Sức vang của giọng điệu trong trường ca Trần Anh Thái còn thể hiện rõ hơn ở đặc điểm riêng của sắc thái ngôn từ. Phong cách ngôn ngữ trong các tác phẩm khá thống nhất. Ngôn ngữ Trần Anh Thái thể hiện sự nghiệm trải sâu sắc của một tâm hồn đa cảm, giàu suy tư. Sắc thái trầm lắng, xót thương thấm trải sâu sắc trong từng lớp ngôn từ, bởi những lớp từ ngữ đầy ám ảnh, vọng khí chất âm u, đầy day dứt và khắc khoải. Đó là những câu, chữ, rút ra từ một trái tim đa sầu, đa cảm, một tâm hồn cô đơn và trải nghiệm, chất chứa bao nỗi niềm ưu tư về cuộc sống.
Giọng điệu trong trường ca của anh có buồn, có bi, đau đớn dằn vặt... nhưng không hề bi lụy, thất vọng, không tuyệt vọng và chối bỏ cuộc đời. Đó là nỗi buồn cao khiết, là những xúc cảm nhân bản rất con người, bởi, "không gì cao quý hơn một nỗi buồn đẹp". Và đó chính là giá trị đích thực của các tác phẩm nghệ thuật chân chính, bởi "nghệ thuật chân chính mỗi lần làm rơi nước mắt con người lại làm họ thanh sạch hơn, hoàn thiện hơn".
Cuối cùng là giọng điệu suy tư triết lý. Giọng điệu suy tư, triết lý trong trường ca hình thành xuất phát từ hai lý do. Thứ nhất, xuất phát từ đặc trưng thể loại, trường ca là các tác phẩm trữ tình giàu chất trí tuệ, có khả năng tổng hợp cao và phạm vi phản ánh hiện thực cuộc sống rộng lớn ở cả bề rộng và chiều sâu. Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu nhận thức bản thân và thời đại của nhà thơ. Trong các trường ca, các tác giả luôn nhằm thể hiện những suy tưởng sâu sắc về những vấn đề liên quan đến số phận lịch sử cộng đồng và số phận cá nhân đặt trong tương quan rộng lớn số phận của dân tộc ở những thời điểm phản ánh rõ nét nhất những biến cố lịch sử mang đậm dấu ấn thời đại.
Trong văn học chống Mỹ, các trường ca đã "bộc lộ rõ sự trăn trở, khao khát đào sâu bản chất, ý nghĩa của những vấn đề lớn lao của dân tộc và nhân loại. Mỗi trường ca, do đó, không chỉ thể hiện tầm vóc tư tưởng và tài năng riêng của nhà thơ mà còn hàm chứa tư tưởng, nhận thức chung cả dân tộc... Các nhà thơ không chỉ xác định vị trí của mình trong dòng lịch sử lớn đang vận động, mà còn nói lên được những suy ngẫm, khát vọng của nhiều thế hệ". Từ sau năm 1975, các trường ca "từ điểm nhìn hiện tại,... phóng chiếu cái nhìn sâu xa về lịch sử đất nước - một lịch sử oai hùng nhưng cũng không ít thương đau và bất hạnh. Ý thức nói nhiều về bi kịch khiến cho các tập thơ không rơi vào tụng ca dễ dãi mà thể hiện chiều sâu ngẫm ngợi của các nhà thơ về thế thái nhân tình trong sự chuyển động không ngừng của lịch sử".
Kế thừa và phát triển những thành tựu của các tác giả đi trước, Trần Anh Thái không ngừng sáng tạo và làm mới thể loại. Khác với các trường ca trước đây, các nhà thơ thường thể hiện chiều sâu sự suy tư trong tác phẩm của mình bằng việc sử dụng hình thức cái tôi trữ tình nhập vai, hóa thân vào các nhân vật để chiêm nghiệm, suy tư (Đêm trên cát, Trò chuyện với các nhân vật của mình của Thanh Thảo), hoặc qua hình thức đối thoại giữa chủ thể và nhân vật trữ tình (Trường ca biển của Hữu Thỉnh, Sông Dinh mùa trăng khuyết của Giang Nam). Ở các trường ca của Trần Anh Thái, mọi sự suy tư, triết lý đều khởi thủy từ tiếng nói của cái tôi trữ tình. Những suy ngẫm, khái quát về lịch sử và những suy tư về số phận con người bao giờ cũng xuất phát từ chứng nghiệm thực tế của nhân vật trữ tình. "Chiêm nghiệm, suy tư là những trạng thái tự nhiên của con người, là những khoảng lặng tâm linh đưa con người về với chính mình trong một thế giới tinh thần thuần khiết". Đọc trường ca của Trần Anh Thái có thể thấy, "dấu ấn riêng trong những khúc ca của anh là những suy tư, lý giải về số phận con người". Sự lí giải này được nhà thơ thể nghiệm qua tư duy phân tích tổng hợp và đạt chiều sâu trong sự tổ chức và sáng tạo ở kết cấu hình tượng.
Xuất phát từ cảm hứng chủ đạo xuyên suốt ba tập trường ca, Trần Anh Thái đã tìm về quá khứ với một tâm nguyện chân thành khám phá bản chất và cội nguồn văn hóa dân tộc và anh đã tạo nên chiều sâu trong các khúc ca bằng những suy tư và cảm nghiệm sâu sắc về số phận người. Lý giải cuộc đời và số phận con người cũng như bản chất thực của cuộc sống là điều cốt yếu đằm sâu trong dòng suy tư của nhà thơ. Sự suy tư, triết lý trong các trường ca trước đây thường thấy các nhà thơ thông qua các biến cố lịch sử để khái quát hiện thực lịch sử của dân tộc và số phận của nhân dân, từ đó lý giải và triết lý về sự lựa chọn của con người trong những năm tháng sôi bỏng ấy: "Người ta không thể chọn được sinh ra nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy (Những người đi tới biển-Thanh Thảo), hay "Thà anh chết một nghìn lần thư thái / Còn hơn sống nghìn năm dằn vặt, dày vò / Anh sẽ đánh một trận này để sống mãi / Với quân thù anh chẳng được quyền thua" (Mặt trời trong lòng đất-Trần Mạnh Hảo), để từ đó họ chọn cho mình một thái độ sống không thể khác được: "Vị trí chúng ta không thể khác / Ai nỡ đổi cho mình một chỗ sống bình yên" (Trường ca sư đoàn-Nguyễn Đức Mậu). Còn ở trường ca Trần Anh Thái , mọi sự suy tư, lý giải về lịch sử luôn gắn liền với tư tưởng của nhà thơ về con người, đó là khát vọng đi tìm và giải mã tính người. Do vậy, chiều sâu sự suy tư trong các tác phẩm của anh là những trăn trở tìm mình của chính cái tôi tác giả. Tuy nhiên, sự khắc khoải của những dòng tâm tư trong các trường ca của anh không nhằm ý nghĩa cụ thể, bó hẹp, đóng khung cho số phận cá nhân, mà mang ý nghĩa phổ quát. Bởi vậy, chất triết lý suy tư thấm sâu trong từng lớp hình tượng mang ý nghĩa phúng dụ về số phận con người.
Sự "lạ hóa" giọng điệu trong trường ca Trần Anh Thái thể hiện rõ trong sự đổi mới về kết cấu. Các trường ca của anh là những "trường ca tâm trạng, chất chứa qua những dòng suy tư mang tính phản tỉnh của tác giả". Bởi thế, sự suy tư, triết lý của Trần Anh Thái không khô khan, trừu tượng, mà nó là sự cụ thể hóa tiếng nói của một cái tôi tự biểu hiện, thế nên chất suy tư, triết lý càng sâu lắng, thấm trải hơn.
Những suy tư, triết lý trong trường ca Trần Anh Thái không chỉ là tiếng nói của ý thức, mà đó còn là tiếng nói trong thẳm sâu vô thức và tiềm thức. Trăn trở, suy tư về số phận con người, cái tôi trữ tình nhà thơ còn "phóng rọi tâm tưởng tới những cảnh tượng của những vùng đất lạ để thấu triệt những cảm nghiệm về con người và đời sống thế gian". Cho dù, đó là thế giới thực hay siêu thực, cõi thực hay là thế giới của những cơn mơ, thì sự trăn trở, suy tư trong các trường ca của anh vẫn không gì khác ngoài con người, ngoài số phận. Bởi "cõi siêu thực của tâm linh chỉ là cái tận cùng của những đau đớn, chiêm nghiệm về thực hiện. Miền vô thức là bước đầu tiên của ý thức".
Bản chất triết lý trong trường ca Trần Anh Thái là những vấn đề liên quan đến số phận và cuộc đời con người. Những câu hỏi tu từ vang lên riết róng như là sự hối thúc thể hiện sự nóng bỏng của kẻ đi tìm mình, nhưng cái chính là cái tôi trữ tình nhằm giải mã bản chất của cuộc sống, con người và số phận: "Con đường nào tổ tiên tôi đi?/Họ đi theo đường nào / Hạnh phúc ở đâu? / Hạnh phúc thật con người?". Đó là những câu hỏi mang tính thời đại, những vấn đề dân tộc và nhân loại, của mọi thời và mọi thế hệ. Bởi thế, tính triết lý mà trường ca Trần Anh Thái hướng tới là cái đích của con người mọi thời vươn tới.
Khi viết về chiến tranh, trường ca Trần Anh Thái không nhằm kể, tả lại hiện thực cuộc chiến, mà chiều sâu của những khúc ca là những suy tư, triết lý được rút ra từ những trải ngấm của nhà thơ qua dòng hồi ức về quá khứ. Hiện thực chiến tranh trong trang viết của anh được soi chiếu từ cái nhìn trải nghiệm của người lính đi qua nỗi đau của cuộc chiến. Và "chiến tranh đã giúp cho nhân vật trữ tình khám phá ra một chiều khác của cuộc đời, sự sống và cái chết, nhìn nhận sâu hơn về người thân và người yêu.
Trong cả ba tập trường ca, có thể thấy sự thống nhất trong dòng suy tư, triết lý của một cái tôi hướng nội là đi sâu vào khám phá bản thân nhằm lý giải cho những vấn đề con người và số phận, cái tôi trữ tình nhà thơ nhiều lần trăn trở về "con đường" mà cha ông, lịch sử dân tộc đã đi trong quá khứ, tất cả cũng không ngoài mục đích tìm kiếm con đường hạnh phúc.
Những vấn đề suy tư, triết lý trong trường ca Trần Anh Thái không gì khác là những vấn đề nhân sinh muôn thuở của con người: sự sống, cái chết, niềm hạnh phúc và sự đau khổ. Nhức nhối trong tâm thức anh là con đường tìm kiếm và khám phá hạnh phúc thật của con người. Đó là sự khao khát và là mục đích sống của con người bao thế hệ. Bản chất của cuộc sống là sự tồn tại biện chứng của những mặt đối lập, sự sống và cái chết, niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau... Từ thực tế trải nghiệm của một cái tôi cá nhân, chất triết lý trong trường ca Trần Anh Thái đã vươn tới bản chất triết học và khoa học: "Cái chết không khổ đau và không hạnh phúc / Bao câu chuyện trầm luân thành truyền thuyết hôm qua / Đã lùi xa, đã trở về với đất / Thành cánh đồng muôn thuở cỏ ru ca", cái chết cũng là cái đích cuối cùng của con người, là sự giải thoát: "Họ đã đi tới đích cuộc đời / Không còn tường thành giam hãm", nhưng cái chết cũng là sự mở đầu cho một kiếp nghiệp mới: Sự sống sinh ra sau cái chết già". Và thức ngộ bản chất cuộc sống: "Không có đại lộ trần gian / Không có bữa tiệc nào dọn sẵn", đồng thời phát lộ chân lý: Không có vùng sáng nào độc quyền / Không ai độc chiếm hào quang. Chân lý về cuộc sống là sự kiếm tìm, là niềm tin hướng về tương lai, không có một định luật, một công thức hay một con đường nào định sẵn, tất cả đang Trên đường, đang là phía trước khai mở...