Richmal Crompton
Chương 9
William và tấm xa tanh trắng
“Cháu thực sự muốn có một cậu bé giữ đuôi váy,” cô Grant bâng khuâng thì thầm. “Một đám cưới trông có vẻ rất... tầm thường nếu không có một cậu bé giữ đuôi váy.”
Bà Brown, dì của cô kiêm chủ hôn, nhìn cậu con trai út phía bên kia bàn trà, kẻ đang ngấu nghiến cái bánh kem với thái độ không màng đến hậu quả, một biểu hiện của tuổi trẻ.
“Có William đấy,” bà nói vẻ không chắc chắn lắm. Và rồi, “Con ăn đủ bánh rồi đấy, William.”
Cô Grant nghiên cứu nét mặt của William - lúc này đang thể hiện vẻ đức hạnh bị chà đạp quá sức chịu đựng.
“Đủ rồi ấy ạ!” nó nhắc lại. “Con hầu như còn chưa ăn tí nào. Mẹ nhìn đúng lúc con vừa mới bắt đầu ăn một tí. Nó chỉ là một cái bánh thôi mà. Nó có gây hại gì cho con đâu. Nó mà gây hại gì cho con thì con đã chả ăn rồi. Đường tốt cho chúng ta. Động vật ăn đường thì mới mạnh khỏe được chứ. Ngựa ăn đường và đường có gây tí hại gì cho chúng đâu, rồi thì vẹt và những con khác ăn đường và đường có gây cho chúng tí...”
“Thôi thôi, đừng cãi nữa, William,” mẹ nó nói vẻ mệt mỏi.
Tài năng hùng biện thiên bẩm của William đã được cả gia đình biết đến và khiếp sợ.
Rồi cô Grant công bố kết quả cuộc nghiên cứu nét mặt nó.
“Thằng bé có một khuôn mặt quá... hiện đại!” cô nói. “Một cậu bé giữ váy nhất thiết phải có nét gì đó cổ điển và lãng mạn cơ.”
Bà Brown (chủ nhân ngôi nhà sẽ tổ chức đám cưới) trông có vẻ lo lắng.
“William thì chả có nét gì cổ điển hay lãng mạn,” bà nói.
“Xem nào,” - khuôn mặt trí thức của cô Grant sáng lên - “còn chị họ của thằng bé, Dorita, thì sao? Chúng sàn sàn tuổi nhau, phải không ạ? Cả hai đều mười một tuổi. Xem nào, hai đứa chúng nó mặc xa tanh trắng, cầm những bó nhựa ruồi. Dì thấy sao? Dì có để con bé ở nhờ cho buổi lễ được không? (Cô Grant luôn gọi đám cưới của mình là “buổi lễ”.) “Nếu dì không cắt tóc thằng bé một thời gian có khi trông nó trông sẽ khá hơn chăng?”
William đã bỏ ra vườn cùng ba người bạn tri kỷ - Ginger, Henry và Douglas - và đang chơi trò leo núi mới nhất. Một tấm ván được đặt dựa vào thành vườn, và phía trên là ba đứa nhóc cột chung lại với nhau và gài lông vũ lên mũ đang trườn bò. William đang đội chiếc mũ đánh gôn cũ của mẹ và tưởng tượng mình là một nhân vật oai vệ và anh hùng. Trước khi chúng lên tới đỉnh, chúng luôn bị trượt chân, lăn xuống khỏi tấm ván và ngã thành một đống ngơ ngác và mình mẩy thâm tím dưới đất. Những vết bầm không tài nào làm giảm đi sức hấp dẫn của trò chơi. Đối với William, sức lôi cuốn của mọi trò chơi chủ yếu nằm ở sự hiểm nguy đến tính mạng và chân tay. Ý tưởng về trò này nảy ra từ chiếc gậy leo núi cũ mà một người bạn của ông Brown đã vô ý cho William. Lớp sơn cầu thang và hành lang trên lầu đã bị phá hỏng hoàn toàn trước khi cả gia đình biết chuyện món quà, và cây cậy leo núi bị tịch thu một tuần, rồi được trả lại với điều kiện không bao giờ được mang vào trong nhà nữa. Kết quả là sự ra đời của trò leo núi trên ván. Cả bọn thay phiên giữ cây gậy leo núi, nhưng William thì được hẳn hai lượt để đánh dấu một sự thật rằng nó là người sở hữu đầy hãnh diện của cây gậy.
Bà Brown đề cập với William về vai trò người giữ váy tương lai của nó với đôi chút lo âu. Thái độ thông thường của gia đình William đối với William vốn là lo âu.
“Con có muốn đi dự đám cưới của chị họ Sybil không?” bà nói.
“Không, con không đi đâu,” William đáp không chút do dự.
“Con không thích được ăn diện à?” bà nói.
“Kiểu thổ dân da đỏ ấy ạ?” William nói vẻ hy vọng.
“Ờ... không, không hẳn thế.”
“Kiểu cướp biển ạ?”
“Không hẳn.”
“Con sẽ đi với tư cách một người da đỏ, hoặc con sẽ đi với tư cách một tên cướp biển,” cậu bé kiên quyết, “nhưng con sẽ không đi với tư cách bất kỳ thứ gì khác.”
“Một cậu bé giữ váy,” cô Grant nói bằng chất giọng trong trẻo, du dương, “là một ý tưởng cổ điển và lãng mạn, William ạ. Nó toát lên vẻ quyến rũ đầy hào hoa phong nhã mà hẳn sẽ có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với một cậu bé ở tuổi em.”
William quay về phía cô với một vẻ mặt khó hiểu và tặng cô một cái lườm lạnh lùng.
Họ kín đáo bàn bạc về trang phục của nó.
“Dì có một đôi tất lụa trắng rất đáng yêu,” mẹ nó nói. “Chúng có thể dùng làm quần tất, và Ethel mới thải ra một chiếc váy lót bằng xa tanh. Dì nghĩ chúng ta có thể may nó thành một thứ trang phục gì đó, phải không? Chúng ta sẽ mua thêm một ít xa tanh trắng và vài mẫu hoa văn.”
“Không, con sẽ không mặc quần áo cũ của Ethel đâu,” William nói, vẻ căm hờn nung nấu. “Mọi người chỉ muốn biến con thành kẻ lố pịch thôi. Mọi người không thèm quan tâm xem trông con sẽ lố pịch thế nào. Suốt phần đời con lại con sẽ là kẻ lố pịch đi loanh quanh trong bộ quần áo cũ của Ethel. Con nhất định sẽ không làm thế đâu. Con nhất định sẽ không đi dự cái đám cưới cũ rích nào hết. Không, con không muốn xem đám cưới chị họ Sybil, và con nhất định sẽ không để bị biến thành kẻ lố pịch trong bộ quần áo cũ của Ethel.”
Họ thuyết phục và dỗ ngọt và đe dọa, nhưng đều vô ích. Cuối cùng William phải chịu thua uy quyền của phụ huynh và đi đi lại lại với dáng điệu của một kẻ tử vì đạo sắp bị lên dàn hỏa thiêu. Ngay đến trò leo núi cũng chẳng còn hấp dẫn và cây gậy leo núi thì nằm lăn lóc bên thành vườn. Thái độ của nhóm bạn thân cũng không được khích lệ cho lắm.
“A! Thằng giữ váy! Ai sẽ làm thằng giữ váy ý nhỉ? Ôi, hay thế chứ lị. Một thằng giữ váy diện toàn đồ trắng. Willie bé nhỏ yêu quý. Trông cậu bé có đáng yê...ê...ê...êu không nào?”
Cuộc sống trở nên vô cùng bận rộn. Thời giờ chủ yếu được dành để trả thù những lời xúc xiểm. William ôm ấp mối hy vọng âm thầm rằng vụ trả thù này sẽ khiến nó bị biến dạng vĩnh viễn và thế là không thể dự đám cưới được nữa. Tuy nhiên, ngoại trừ một cục u to tướng trên trán ra thì nó vẫn bình thường. Thằng bé săm soi cục u trước gương một cách đầy suy tư và quyết định rằng với chỉ cần kích động một chút thôi là cục u này có thể làm cho sự xuất hiện của nó trước công chúng trong sự kiện lãng mạn kia trở nên bất khả thi. Nhưng nỗi đau gây ra từ nỗ lực đập đầu vào tường đầy anh dũng đã khiến nó phải từ bỏ kế hoạch.
Một tuần sau Dorita đến cùng với cậu em nhỏ của cô bé, Michael, ba tuổi. Dorita nom mảnh mai và duyên dáng, với khuôn mặt trái xoan trắng trẻo và mái tóc đen xoăn.
Cô Grant đón cô bé ở bậc cửa.
“Chao ôi, cô phù dâu nhỏ của chị?” cô hót hay như sáo. “Chào mừng em! Chúng ta sẽ thành bạn thân lắm đây - em và chị và William - cô dâu” (cô đỏ mặt và hất đầu vẻ điệu đà) “cùng cậu bé giữ váy và cô bé phù dâu của mình. William là một cậu con trai, thằng bé chỉ hơi vô tâm xíu xiu và không nhận ra sự lãng mạn của tất cả những điều này. Chị chắc rằng em sẽ nhận ra. Chị nhìn thấy được điều ấy trên khuôn mặt nhỏ bé đáng yêu của em. Chúng ta sẽ có những cuộc tâm tình hay ho với nhau.” Đôi mắt cô bắt gặp Michael và đột nhiên nheo lại. “Cậu bé kia trông cũng sẽ rất xinh xắn khi vận đồ xa tanh trắng, đúng không nhỉ?” quay về phía bà Brown. “Cậu bé có thể đi giữa hai đứa ... Chúng ta có thể mua thêm một ít vải xa tanh trắng ...”
Khi họ đã đi khuất, cô bé phù dâu hướng đôi mắt đen e lệ với hàng mi dài về phía William.
“Ủy mị ngờ nghệch, cái bà đó,” cô bé nói với âm điệu trong trẻo, tao nhã, hất đầu về phía cánh cửa mà bóng dáng cao ráo của cô Grant vừa đi qua.
William thấy như được khích lệ đôi chút bởi thái độ của cô bé.
“Cậu có hứng thú với vụ cưới xin vớ vẩn này không?” cô bé tiếp lời vẻ lơ đễnh, “bởi vì tớ thật sự không thích.”
William cảm thấy như mình vừa tìm được một tri âm tri kỉ vậy. Nó trở nên thoải mái đến mức đã dẫn cô bé xuống chuồng ngựa và chỉ cho cô bé xem chú chuột đồng mà nó vừa bắt được đang bị nhốt trong một hộp các tông.
“Tớ đang dạy nó nhảy,” nó tâm sự, “và hẳn nó sẽ mang về rất nhiều tiền khi nó có thể nhảy một cách ra trò. Chuột nhảy múa, cậu biết đấy. Người ta cho chúng trình diễn trên sân khấu, mà những người biểu diễn thì thu được bao nhiêu là bảng mỗi tối, nên tớ cá là chuột cũng thế - ít nhất là những người sở hữu bọn chuột nhảy múa trên sân khấu. Tớ đang dạy nó nhảy bằng cách giơ cái bánh quy trên đầu nó và di chuyển cái bánh vòng vòng. Hôm qua nó cắn tớ hai phát.” Thằng bé tự hào phô ngón tay bị thương của mình ra. “Tớ mới tóm được nó hôm qua. Hôm nay chắc nó phải học được rồi,” thằng bé nói thêm vẻ đầy hy vọng.
Sự thất vọng tột cùng của cô bé, khi dấu vết duy nhất sót lại của con chuột đồng còn có thể tìm được là chiếc hộp các tông với một cái lỗ bị gặm ở góc, càng khiến trái tim William xích lại gần cô hơn.
Nó tránh mặt Henry, Douglas và Ginger. Henry, Douglas và Ginger đã thề sẽ có mặt ở cửa nhà thờ để chứng kiến cảnh William từ trên xe ngựa bước xuống rực rỡ trong bộ y phục bằng vải xa tanh trắng, và William cảm thấy căng thẳng đến thế thì tình bạn không chịu nổi.
Cậu bé cùng Dorita ngồi trên bờ tường khu vườn lạnh cóng và nguy hiểm, bàn tán về chị họ Sybil cùng đám cưới. Ngôn từ của Dorita khiến William thấy thích thú và mê tít thò lò.
“Chị ta là một bà già sướt mướt ngu ngơ,” cô bé ngọt ngào phán, lắc lắc những lọn tóc đen xoăn. “Bà già ngu ngơ sướt mướt nhất mà cậu thấy ở bất kỳ chốn nào trên trái đất già cỗi này, thề luôn! Có chết tớ cũng không ở cùng chị ta đâu nhé - sẽ không dính dáng quái gì đến chị ta hết. Chị ta là bà già lố bịch khó ưa, đích thị là như thế. Hừm!”
“Bọn trẻ đó hơi đáng thất vọng một xíu xiu về khoản tính cách - đối với một người yêu trẻ như em,” cô Grant tâm sự với vị hôn phu trí thức.
“Em đã cố gắng thăm dò chiều sâu tâm hồn chúng, nhưng chẳng thấy chiều sâu đâu để mà thăm dò. Chúng chả có tí bí ẩn, mê hoặc, hay ‘tỏa hào quang’ gì cả. Chúng quá là... quá là vật chất.”
Ngày thử thách mỗi lúc một gần, và tinh thần của William thì mỗi lúc một tồi tệ. Cuộc đời như trải ra trước mắt nó - tuổi trẻ, khi trưởng thành và lúc về già - đầy thê lương và cô độc, chỉ ngập chìm trong nỗi nhục nhã và xấu hổ. Uy tín và danh tiếng của nó sẽ tiêu tan mãi mãi. Nó sẽ không còn là William - một thổ dân da đỏ, một tên cướp biển, một kẻ liều lĩnh nữa. Nó chỉ còn là một Cậu Bé Mặc Đồ Xa Tanh Đi Dự Đám Cưới. Hiển nhiên là sẽ có một đám những cậu lít nhít đứng xôn xao trước cửa nhà thờ. Tất cả lũ nhóc trong vòng bán kính vài dặm dù chỉ biết mặt William cũng đã kháo nhau rằng William sẽ có mặt ở đó. William sẽ cưỡi ngồi cùng Dorita và Michael trên xe cô dâu. Nó tưởng tượng ra cảnh mình bước xuống xe ngựa và phải hứng những lời chế nhạo vang lên ầm ầm. Nghĩ đến đó, hai má nó nóng bừng lên. Cuộc đời nó nhiều năm sau chủ yếu sẽ chỉ để trả thù những lời xúc xiểm. Nó dõi theo bóng dáng của cô dâu tương lai đang thẹn thùng với một cái nhìn trừng trừng hiểm ác. Trong những giây phút tồi tệ nhất nó còn tính đến cả chuyện giết người. Khi mẹ nó gợi ý bâng quơ rằng hai đứa nên tặng một món quà cưới cho cô dâu, nó giận dữ đến nỗi làm bà khiếp vía.
“Con đang bị biến thành kẻ lố pịch đến hết cả phần đời còn lại,” nó chốt lại. “Con sẽ không quà cáp gì cho chị ta hết. Con biết con muốn tặng chị ta cái gì rồi,” nó bé nói thêm vẻ ám muội.
“Ừ, mẹ cũng thế.”
Bà Brown không buồn hỏi thêm nữa.
Ngày đám cưới bừng lên rạng rỡ và ngập tràn nắng ấm một cách nhẫn tâm. Biểu cảm đau đớn của William cùng những lời than thở về đủ các dấu hiệu đáng ngại khác nhau của những căn bệnh nghiêm trọng đều bị cả gia đình vốn đã giàu kinh nghiệm phớt lờ.
Trong ba đứa, Michael được diện đầu tiên, người ta mặc cho cậu bé một bộ com lê bằng xa tanh trắng được may rất tỉ mỉ rồi đuổi cậu xuống phòng khách yên lặng ngồi chơi. Rồi tới lượt William bất đắc dĩ bị tóm ra khỏi nơi ẩn nấp tối tăm nhất trong chuồng ngựa và kéo lê đến chỗ sát sinh trong khi nó mặt mũi tái nhợt và vùng vằng phản kháng.
“Vâng, và rồi con sẽ chết sớm thôi, dễ thế lắm,” nó nói một cách thống thiết, “Và rồi có lẽ mọi người sẽ thấy tiếc thương một chút đấy, nhưng con sẽ chẳng thèm quan tâm.”
Trong người Michael lúc đó tồn tại hai bản năng của người nguyên thủy, bản năng lục tìm đồ ăn và bản năng giấu đồ ăn khỏi kẻ thù khi đã tìm thấy. Trước đó, cậu đã làm một chuyến viếng thăm căn bếp và thấy bếp vắng tanh. Trên bàn có nửa cân bơ và một túi cam to. Ngay lập tức cậu chiếm dụng những thứ đó, và với nỗi lo sợ bị phá đám giữa chừng đúc rút từ kinh nghiệm, cậu ôm đống đồ chui xuống gầm bàn phòng khách. Trước khi kịp bắt đầu đánh chén, cậu đã bị gọi lên lầu để mặc quần áo cho buổi lễ. Khi trở lại (tinh tươm trong lớp xa tanh trắng) cậu sung sướng khi thấy kho báu của mình chưa bị phát hiện. Cậu bắt đầu chén chỗ bơ trước. Cái gì không ăn được thì cậu bôi lên khắp khuôn mặt và mớ tóc xoăn. Rồi cậu đột nhiên cảm thấy ăn năn và cố xóa mọi dấu vết của tội lỗi bằng cách dùng một tấm thảm len xoa thật mạnh lên mặt và tóc. Sau đó cậu ngồi xuống trường kỷ và bắt đầu chén chỗ cam. Cam rất vàng, mọng nước và hơi chín nẫu. Cậu nhét quả cam vào mồm bằng cả hai bàn tay nhỏ mũm mĩm. Dù còn nhỏ tuổi nhưng cậu đã biết rất rõ rằng những niềm vui ngọt ngào nhất trong cuộc sống sẽ chấm dứt sớm nhất. Nước cam trộn lẫn với đám lông len và bơ trên khuôn mặt nhỏ tròn xoe của cậu. Nước cam chảy trên hai má và rớt xuống cổ áo trắng. Quanh mồm cậu chuyển hết sang màu vàng khè. Cậu đã đổ hết chỗ cam trong túi ra khắp xung quanh chỗ mình ngồi. Cậu đang ngồi trong một bể nước ép. Bộ com lê của cậu phủ đầy nước cam, trộn lẫn với hạt và vỏ, và cậu vẫn tiếp tục ăn.
Sự phá đám đầu tiên đến từ William và Dorita, hai đứa vừa chậm rãi bước xuống cầu thang vừa nắm tay nhau trong sự cảm thông thầm lặng, hai bóng dáng sáng lấp lánh trong lớp xa tanh trắng. Chúng bước về phía cuối phòng. Cả hai cũng bị đuổi xuống phòng khách với lệnh phải “yên lặng ngồi chơi” cho tới khi được gọi.
“Chơi?” William hờ hững nhắc lại. “Tớ chẳng thấy có hứng chơi gì cả.”
Chúng nhìn Michael chằm chằm, mồm há hốc không nói nên lời. Bơ và mẩu len mắc trong những lọn tóc xoăn của cậu và dính đầy phần trên khuôn mặt. Phần dưới thì đã bị nước cam rửa trôi. Bộ com lê của cậu gần như phủ đầy nước quả. Phía sau lưng thì thấm đẫm nước.
“Khỉ thật!” cuối cùng William lên tiếng.
“Cậu túm lấy nó,” chị cậu bé phán.
Michael vội vã rút lui khỏi hiện trường gây án.
“Micki bây giờ ngoan mà,” cậu bé ngọng nghịu vẻ khẩn cầu.
Cả hai nhìn vào chỗ ngồi mà cậu vừa rời khỏi - một vũng toàn nước ép và những miếng cam nát bét. Rồi chúng nhìn nhau.
“Nó sẽ không thể đi được,” Dorita chậm rãi nói.
Một lần nữa chúng nhìn vào cái trường kỷ phủ toàn cam và rồi lại chúng nhìn nhau.
“Nó bây giờ khá nà ngoan mà,” Michael nói vẻ hy vọng.
Rồi cô bé phù dâu, biết rằng sự chần chừ hững hờ thường giết chết cơn bốc đồng huy hoàng nhất, chộp lấy tay William.
“Ngồi xuống. Nhanh lên!” cô bé hăng hái thì thầm.
Chúng ngồi xuống, không nói một lời. Chúng ngồi cho tới khi cảm thấy da mình ẩm ướt. Rồi William thở dài thườn thượt.
“Giờ thì chúng ta không thể đi được rồi,” nó nói.
Qua cánh cửa mở chúng nhìn thấy một nhóm nhỏ đang tiến vào - cô Grant mặc váy trắng tinh, đi sau là mẹ William, vận bộ đồ rực rỡ và đẹp nhất của bà, và bố William với vẻ mặt biểu lộ đôi chút mệt mỏi xen lẫn nhẹ nhõm rằng tất cả những trò này sẽ sớm kết thúc.
“Con cá mòi ăn diện đây rồi,” Dorita thì thào.
“William! Dorita! Michael!” họ gọi.
Một cách chậm rãi, William, Dorita và Michael tuân theo lời triệu tập.
Khi đôi mắt của cô Grant bắt gặp cái vật thể lạ, chính là Michael, cô la toáng lên.
“Michael! Ôi, đứa trẻ khủng khiếp này!”
Cô ôm chặt lấy khung tò vò trên cửa và trông như thể sắp ngất tới nơi.
Michael bắt đầu khóc nức nở.
“Tội nghiệp Micky,” cậu nói qua làn nước mắt. “Nó chấy dất ốm.”
Mọi người vội vàng đưa nó đi.
“Không sao đâu, cháu yêu quý,” bà Brown an ủi, “hai đứa kia trông rất đáng yêu.”
Nhưng ông Brown đã thơ thẩn đi xa hơn vào trong phòng và do đó đã thình lình bắt gặp một cảnh tượng rất đáng sửng sốt về cậu bé giữ váy và cô bé phù dâu, vốn đang quay lưng lại.
“Cái gì? Ở đâu?” ông phừng phừng lên tiếng.
William và Dorita quay về phía ông theo bản năng, vì thế cũng giúp bà Brown và cô dâu thấy cái cảnh tượng đã làm ông mất bình tĩnh đến nhường vậy.
Cô dâu la toáng lên lần thứ hai - chói tai và dữ dội hơn lần thứ nhất.
“Ôi, chúng đã làm gì thế này? Ôi, những đứa ranh con chết tiệt! Và ngay khi tôi chỉ muốn được bình tĩnh. Ngay khi mọi thứ đều phụ thuộc vào việc tôi cảm thấy bình tĩnh. Ngay khi...”
“Bọn con đang đi quanh phòng và vừa ngồi xuống ghế trường kỷ thì đã có thứ này trên ghế thế là nó dính vào quần áo bọn con,” William tỉnh bơ giải thích một hơi với giọng đều đều.
“Tại sao con lại ngồi xuống?” mẹ nó nói.
“Bọn con đang đi quanh phòng thì lại thấy mệt nên bọn con ngồi xuống ghế trường kỷ và đã có thứ này trên ghế thế là nó dính vào...”
“Ôi, thôi đi! Con không nhìn thấy nó ở đấy à?”
William ngẫm nghĩ.
“Dạ thì, bọn con đang đi quanh phòng,” nó nói, “thì bọn con lại thấy mệt nên bọn con ngồi ...”
“Thôi đừng có nói nữa.”
“Chúng ta có thể làm áo choàng được không,” cô dâu rền rĩ, “chùm xuống và che hết phía sau lưng chúng? Sẽ không mất nhiều thời gian đâu...”
Ông Brown rút đồng hồ ra.
“Xe ngựa đã chờ được mười lăm phút rồi,” ông kiên quyết. “Chúng ta không có thừa thời gian đâu. Đi nào, cháu yêu. Chúng ta sẽ tiếp tục cuộc điều tra sau buổi lễ. Con không được đi, dĩ nhiên rồi, giờ con sẽ phải ở nhà.” ông dứt lời, quay sang nhìn William nghiêm khắc. Giọng ông vô tình lại toát lên vẻ ghen tị.
“Thế mà tôi đã muốn có một cậu bé giữ váy biết chừng nào,” cô Grant quay đi, nói với vẻ ai oán.
Niềm vui và hy vọng đã tưng tưng nhảy về với William. Vừa nghe thấy tiếng bánh xe lăn trên đường, nó đã lộn mấy vòng trên thảm cỏ rồi bắt gặp cây gậy leo núi bỏ quên đã lâu đang dựa vào tường.
“Đi nào,” nó sung sướng hét lên. “Tớ sẽ dạy cậu một trò mà tớ nghĩ ra. Đó là trò leo núi.”
Cô bé nhìn nó dựa tấm ván vào tường và bắt đầu công cuộc trèo leo đầy nguy hiểm.
“Đúng là đồ ngốc,” cô bé nói với giọng trong trẻo, ngọt ngào. “Tớ biết một trò leo núi còn hay gấp mười lần cái trò cũ rích kia.”
Câu nói đã tiết lộ nhiều về cá tính và uy lực tinh thần của cô bé phù dâu đến độ William đành ngoan ngoãn đặt mình vào vị trí một học sinh.
Đến đây thì cần phải giải thích thêm rằng những người hầu của gia đình Brown đang bận sắp xếp các món ăn nhẹ trong khu lều bạt ngoài vườn. Sảnh trước đang khá vắng vẻ.
Sau khoảng mười lăm phút, trò leo núi đã vào guồng. Trên những bậc dưới cùng của cầu thang là tấm nệm lấy từ giường bố mẹ William, phía trên là tấm nệm từ giường của cô Grant, trên nữa là tấm nệm từ giường William, và trên chốc là tấm nệm từ giường Dorita. Trong tất cả các phòng ngủ, ga trải giường nằm lộn xộn một đống trên sàn. Hai đầu mỗi tấm nệm được đóng đinh vào bậc cầu thang để đảm bảo độ vững chãi của “quả núi”. Vẫn đang mặc bộ đồ lễ, chúng trườn lên trên bằng đôi chân đi tất, thỉnh thoảng lại mất điểm tựa và lăn xuống đống gối đầu gối ôm (lấy bừa từ tất cả các giường) xếp dưới chân cầu thang. Chúng nô đùa một cách ồn ào và náo động. Chúng thay phiên nhau dùng cây gậy leo núi. Nó là một trợ thủ đắc lực. Chúng có thể bám chặt vào những tấm nệm bằng đầu cây gậy. Tay cầm gậy, William đứng trên đỉnh núi, nóng phừng phừng và thở hổn hển, nó dừng lại để thở. Nó biết rõ rằng sự trừng phạt cách đó không xa - nói chính xác ra thì đang ở nhà thờ ngay gần đây và sẽ cưỡi xe ngựa trở về trong vài phút nữa thôi. Nó biết rồi hai đứa sẽ bị bắt giải thích về vết ố vàng đó. Nó biết mục đích chính đáng của những tấm nệm trong nhà vốn không phải để dành cho trò này. Nhưng nó chẳng quan tâm đến bất kỳ chuyện gì trong số đó. Trong tâm trí nó chỉ hiện lên một đám lít nhít tụ tập ngoài cửa nhà thờ với đôi mắt hau háu dán chặt vào cái xe ngựa mà từ trên đó... cô Grant, bà Brown và ông Brown bước xuống. Cuộc đời trải ra trước mắt nó thật xán lạn, toàn màu hồng. Một nụ cười đắc chí nở trên môi nó.
“Ê! Ai lại đi đứng ở nhà thờ mà chờ một người không bao giờ đến hả? Ê!”
“Tớ mong các cậu không bị cảm nặng vì đã đứng chờ tớ hôm thứ Tư ở cửa nhà thờ.”
“Có nhiều người cả tin quá cơ. Tớ cá là tất cả các cậu đều đã tin là hôm thứ Tư tớ sẽ đến.”
Những câu nói như vậy vu vơ lướt qua đầu nó.
“Tớ bảo, tới lượt tớ dùng cái gậy nhọn đầu đó rồi.”
William lẳng lặng đưa nó cho cô bé.
“Tớ bảo,” cô bé nhắc lại, “cậu nghĩ gì về cái vụ cưới xin này?”
“Không biết nữa,” William đáp gọn lỏn.
“Nếu mà tớ có phải cưới,” cô bé phù dâu tiếp tục, “tớ thà cưới cậu còn hơn.”
“Tớ không phiền đâu,” cậu bé giữ váy nói vẻ hào hiệp. “Nhưng,” cậu bé vội vã nói thêm, “mặc quần áo bình thường thôi.”
“À, ừ,” cô bé mất đà và lăn xuống đống gối. Giọng cô bé vọng lên từ phía dưới nghe nghèn nghẹt, nhưng vẫn trong trẻo như trước nay, “Thề luôn. Mặc quần áo bình thường thôi.”
Còn tiếp...
(Trích bộ truyện "Đích thị William" của Richmal Crompton, do Nhã Nam và NXB Hội nhà văn ấn hành).