- Là một tác giả được liệt vào số những nhà thơ muốn đổi mới thơ cả trong nội dung lẫn hình thức, anh có thể cho biết quan niệm về thơ của mình?
- Tất cả những tác phẩm, không cứ gì thơ, được sản sinh từ quá trình chuyển sinh của đời sống con người và tồn tại sinh động như một nguồn năng lượng tinh thần của nhân loại. Năm 1495, quan học sĩ Viện Hàn lâm Nguyễn Tấn, người đậu thái học sinh cùng khoa với Nguyễn Trãi từng nói, thơ không chỉ lấy ở một thể. Những gì tôi viết ra, đơn giản là ngôn ngữ trải nghiệm của trí tưởng tượng đầy hồi hộp và mong muốn nhận dạng thế giới qua những điểm nhìn chuyển sinh của bản thân. Khoa học của sự sáng tạo cần một bản thể tự tin và luôn vận động chứ không phải sự loay hoay tìm kiếm trong vỏ bọc của những khái niệm. Người xưa đã không gò bó quan niệm sáng tác trong một thể hay một lệ thì không có lý do gì tôi phải gò mình trong một khái niệm.
- Anh nghĩ thế nào về sự lấn lướt của các phương tiện nghe nhìn trước văn hoá đọc?
- Theo tôi, cuộc tranh chấp giữa truyền thống và sáng tạo, giữa ý thức và vô thức, giữa cái hữu hình và vô hình, giữa mặc cảm tự nhiên và mặc cảm xã hội mà con người cưu mang không bao giờ kết thúc. Nhờ có cuộc tranh chấp sinh ra từ sự phản biện minh triết ấy, con người luôn mới trong sáng tạo.
Cuộc tranh chấp giữa văn hoá đọc và các phương tiện nghe nhìn cũng là một biểu hiện tranh chấp trong thế giới tinh thần của con người hiện đại. Ngôn ngữ hình ảnh giúp con người dễ dàng so sánh và nhận dạng không gian sống của chính mình. Các phương tiện nghe nhìn hiện thực hóa trí tưởng tượng nhưng nếu quá lạm dụng thì chính hình ảnh mang tính kỹ thuật của nó làm cho con người ngày càng xa rời trí tưởng tượng, thậm chí là kỹ thuật số hoá trí tưởng tượng!
- Những nhân vật trong tập bút ký "Trên dấu chim di thê" của anh là những thân phận lưu vong rất đặc biệt, tại sao vậy?
- Phía sau mỗi số phận lưu vong là số phận lịch sử của dân tộc gắn liền với những bản sắc văn hoá, phong tục tập quán và những biến động về tôn giáo, kinh tế, chính trị. Mang theo những khổ đau và hoài niệm về dân tộc, họ không ngần ngại bước qua mọi đường biên giới để chia sẻ và tìm thấy giá trị sống. Quá trình lưu vong ấy giúp họ có những chuyến đi sâu thẳm vào tận đáy lòng mình, tìm thấy một bản thể thúc đẩy họ vươn tới những chân trời mới lạ.
- Anh có tin ở một thế giới đại đồng?
- Có một thế giới đại đồng trong tâm linh nhân loại nhưng thế giới đó khó lòng hiện hữu. Thánh địa Jerusalem, mà tiếng Do Thái gọi là Yerushalyim với ý nghĩa Thành phố hoà bình sẽ xuất hiện, nhưng từ trước đến nay có bao giờ nơi đây ngừng đổ máu. Trong ngôi nhà của người cha Abraham, lịch sử không ngừng nghe tiếng cãi cọ xen lẫn tiếng súng của người Hồi giáo, Kitô và Do thái giáo. Cái ý tưởng Hoà bình sẽ xuất hiện ấy cũng giống như Đạo Lớn trong Kinh Lễ từng mơ ước được thực hành để thiên hạ là công, điều tín được giảng dạy, con người không chỉ yêu dấu con mình mà vươn lên một tấm tình nhân loại. Có hay không, lịch sử của đất nước viết ra Kinh Lễ đã trả lời tất cả.
Nhưng tôi vẫn mong ước, có những giây phút Nghiêu, Thuấn đi qua đời mình, đi qua cái thế giới đang răn dạy nhau bằng đầu đạn hạt nhân này. Dù khó hiện hữu nhưng không thể không mơ ước và nỗ lực làm việc, vì nhờ nó con người mới được cứu rỗi và không lâm vào cảnh lưu vong khỏi tâm linh mình!
(Theo Thanh Niên)