Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Huỳnh Ngọc Trảng. |
- Ông có cho rằng phong trào phát huy truyền thống đã trở thành một "cơn dịch"?
- Giờ thì có nhiều người quan tâm, nói về văn hóa dân tộc, về phục hưng, về bảo vệ, phát huy truyền thống. Nhưng tôi chẳng ưa chủ nghĩa thực dụng bá nạp các hình thức cổ và mới không thuần nhất. Trong năm qua, tôi tham gia phục hồi Văn Thánh miếu Trấn Biên ở Biên Hòa, Đồng Nai có từ năm 1715, thấy người ta thay đổi cách thiết kế: đặt tượng Hồ Chủ Tịch ở chính điện, Khổng Tử ở ngoài sân. Tôi phản đối cách làm này vì sinh thời, cụ Hồ từng nhận mình là một học trò của Khổng Tử, lẽ nào lại muốn để Vạn thế sư biểu ngồi ngoài sân, mình ở trong miếu và xung quanh ngồi chầu là các bậc tiền nhân từ cổ chí kim?
Qua câu chuyện này, tôi muốn nói rằng kế thừa truyền thống thì phải hiểu truyền thống. Không thể làm truyền thống tả khuynh như thế. Lại có những người nhân danh truyền thống để treo đầu dê bán thịt chó. Người ta không làm văn hóa mà làm áp-phe văn hóa.
- Vậy theo ông, khái niệm truyền thống và hiện đại có đối lập nhau không?
- Vấn đề này đã có nhiều người luận bàn. Theo tôi, truyền thống và hiện đại là hai mặt của chỉnh thể văn hóa. Hiện nay tồn tại hai ý kiến: Một là, văn hóa đương đại của một dân tộc là tổng thể truyền thống cộng hiện đại; hai là truyền thống và hiện đại bất tương dung.
Ý kiến thứ nhất sẽ dẫn đến cách kế thừa truyền thống có tính hình thức, hoặc theo kiểu bình cũ rượu mới, hoặc tân cổ giao duyên, lấy cờ phướn để điểm trang cho các loại kịch bản ca múa nhạc tổng hợp tạp kỹ pha xảo thuật, kiểu ăn bít-tết chấm tí mắm tôm cho có hương vị... quê nhà. Ý kiến thứ hai chia làm hai quan điểm cụ thể: một, truyền thống tất sẽ cản trở hiện đại hóa, muốn hiện đại hóa phải phủ nhận truyền thống; và hai, hiện đại hóa tất sẽ đánh mất truyền thống, suy đồi đạo đức. Quan điểm thứ nhất là biểu hiện của chủ nghĩa sa mạc văn hóa và trong thực tế là sự triệt hạ truyền thống; còn quan điểm thứ hai là biểu hiện của chủ nghĩa bảo thủ văn hóa. Cả hai cách đều chuốc lấy những rủi ro như nhau. Do đó, yêu cầu của chúng ta là phải tiếp cận văn hóa truyền thống trên quan điểm phát triển, cần tránh việc tiếp cận các giá trị truyền thống như một tín đồ nhiệt tâm của cái đạo truyền thống/dân tộc, hiện là mốt thời thượng.
- Ông có thể nói rõ về xu hướng tiếp cận văn hóa như “tín đồ”?
- Tôi muốn lưu ý đến tâm lý phổ biến là việc quá chú tâm đến bản sắc văn hóa dân tộc mà coi nhẹ mặt tiên tiến, lấy truyền thống đối lập với cái mới, cái hiện đại. Bảo vệ truyền thống là nỗ lực đảm bảo cho sự liên tục của văn hóa, tránh sự đứt gãy, chứ không phải ôm giữ cái truyền thống cốt đừng suy suyển. Ở đây đòi hỏi đi sâu nghiên cứu để tìm ra cái gene di truyền của di sản văn hóa, tiến hành cuộc tổng hợp với các vật liệu mới để tái cấu trúc một thực thể văn hóa mới.
- Theo ông, việc nghiên cứu lịch sử văn hóa phải có những yêu cầu căn bản nào?
- Cái đáng sợ là xu hướng nghiên cứu mang hơi hám của thuyết mục đích. Yêu cầu của người nghiên cứu khoa học là phải coi học thuật và tâm thuật là hai mặt cốt tử của nghề nghiệp. Cần cảnh giác xu hướng thực dụng. Người ta làm núi tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ lộ thiên quanh bãi tắm nhân tạo, nơi con cháu Vua Hùng mặc áo tắm đùa sóng giỡn nước ở cái bãi gọi là Tiên Rồng, vậy sự tôn vinh biểu tượng tối thiêng của dân tộc coi ra chỉ là cái vỏ truyền thống và cái đích thực lại nhằm marketing cho dịch vụ giải trí. Việc nghiên cứu lịch sử văn hóa cẩu thả và vô trách nhiệm mang đến hệ quả là gây ô nhiễm tinh thần và môi trường văn hóa.
- Vậy làm sao chống lại sự lấn lướt của chủ nghĩa thực dụng này?
- Tại sao không tìm hiểu những công trình của các nhà nghiên cứu văn hóa một cách đầy đủ? Một số công trình của họ cho thấy lịch sử văn hóa Việt Nam là lịch sử giao lưu văn hóa. Đó là hình tượng ngoại hôn giữa rắn (Lạc Long Quân) và chim (Âu Cơ), là sự chấp nhận An Tiêm thuộc nhóm người ngoại tộc (tộc Chàm), Sơn Tinh (tộc Nùng), Phù Đổng (tộc Thái) và ngay cả Hùng Vương đến từ biển vốn rất có thể là người Mã Lai. Điều quan trọng hiện nay là xác định và nỗ lực làm cho các giá trị và hệ chuẩn hiện đại tiên tiến trở thành yếu tố chủ đạo, định hướng cho phát triển, cuốn hút truyền thống theo con đường sáng đó, chứ không phải vừa tiến về phía trước lại vừa quay đầu luyến tiếc quá khứ vàng son.- Trong cuốn sách mới nhất “Sổ tay hành hương”, ông có đề cập đến tiến trình di chuyển Bắc - Nam và hình thành những diện mạo văn hóa vùng miền?
- Tiến trình di chuyển vào Nam có một quá trình lịch sử. Mỗi tọa độ địa lý lịch sử có một thứ văn hóa vừa tổng hợp mới cũ, vừa tích hợp nội ngoại. Chẳng hạn, vào Nam tiếp thu văn hóa Ấn qua biến thái; rồi lại giao tiếp với văn hóa Hoa Nam để trở thành một phức thể Minh Hương, Chăm, Khmer. Do đó, bước phát triển của văn hóa phía Nam có thêm các yếu tố ngoại sinh, còn ở phía Bắc yếu tố nội sinh mạnh hơn.
- Cho đến nay, ông được xem là một trong những nhà làm tư liệu giỏi nhất ở nước ta. Ông có thể cho biết kinh nghiệm làm nghề của mình?
- Ghi chép, phản biện, đọc thật nhiều. Tôi thường khuyên những đồng nghiệp mới vào nghề là hãy đọc thật nhiều sách tôn giáo và triết học trong 10 năm. Tôi cũng thường dạy con: Muốn làm một việc gì đó phải nỗ lực bằng 20 lần người khác và làm gì cũng phải yêu thích, nếu không sẽ chẳng thể thành công.
(Theo Lao Động)