Ca sĩ Bảo Yến. |
Từ nhỏ, Phương đã làm bạn với đàn tranh, đàn bầu, sáo, violon, piano. Bố mẹ còn nhờ một ông thầy gốc Campuchia đến nhà dạy nhạc cho 3 chị em. Mới tám, chín tuổi, Yến và Phương đã là gương mặt thiếu nhi nổi bật của những chương trình văn nghệ Phật giáo hoặc các show truyền hình thường kỳ do bố thực hiện.
Năm 1980, Nhã Phương đoạt HC vàng giọng hát hay miền Nam với ca khúc Trên biển xanh. Năm 1986 lại đoạt giải lần nữa với bài Những bông hoa trong vườn Bác. Nhận lời mời cộng tác với Đài Truyền hình TP HCM, Nhã Phương từ giã Cần Thơ lên Sài Gòn.
Từ một nhân viên của Sở VH-TT, Phương chính thức thực hiện bước ngoặt của cuộc đời trở thành ca sĩ năm 1982. Năm 1983, Bảo Yến cũng từ bỏ giấc mơ trở thành luật sư để cùng em gái bước vào cuộc đời ca hát. Hai chị em đã toả sáng với phong cách biểu diễn đa dạng, có lúc sâu lắng, có khi sôi nổi. Tên tuổi Bảo Yến - Nhã Phương gắn liền với Tình ca trên biển, Nói chuyện với người trong tranh, Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Tình biển, Hát với chú ve con...
Giữa thập niên 80 là thời kỳ vinh quang của Bảo Yến và Nhã Phương. Đông đảo lời mời cộng tác đến từ ban nhạc Hy Vọng, Sinco, các đoàn Bông Sen, Tuổi Trẻ, hoặc những đoàn nghệ thuật ca nhạc truyền hình... Năm 1986, ban nhạc Gò Công của Yến ra mắt, đánh dấu một bước thành công mới của cô. Sân khấu ca nhạc thời bấy giờ tranh nhau mời vì hai chị em được xem là hiện tượng mới của giới ca nhạc. Mới vào nghề lại gặp quá nhiều thuận lợi, hai cô gái Cần Thơ gốc Huế đã nhìn đời qua lăng kính toàn màu hồng. Thế nhưng những giây phút huy hoàng ấy không kéo dài.
Ca sĩ Nhã Phương.
Họ bắt đầu va chạm những khó khăn, đố kỵ. Tính hai người vốn thẳng thắn, bộc trực nên gặp không ít khó khăn. Hậu quả là có khi họ chỉ được mời hát một lần rồi thôi. Mặc dù ban nhạc Gò Công được nhiều thính giả yêu thích, nhưng sau một thời gian chống chọi với những tị hiềm, chèn ép, Yến và Phương chán nản định giã từ sân khấu. Nhiệt huyết tuổi trẻ và tinh thần trách nhiệm đối với công việc lụi tàn dần.
Với sự giúp đỡ của cậu em Kim Tuấn, năm 1991, Phương mở một phòng thu âm tại nhà. Còn Yến, cô chợt giác ngộ một điều: Tất cả đều là hư ảo, phù du. Cái tâm đạo từ bé lại trỗi dậy, kinh kệ và tĩnh tâm giúp phôi pha phần nào những nỗi buồn phàm tục, Yến lấy đạo làm nền tảng, gia đình làm gốc và quên đi nỗi đam mê ca hát.
Sự vắng mặt của hai giọng ca vàng đã gây không ít hoang mang, tiếc nuối. Năm 1999, không thể dằn lòng trước sự chờ mong của nhiều người hâm mộ, tình yêu âm nhạc trong tim Yến và Phương lại bừng lên. Bảo Yến diễn đều đặn vào các tối thứ sáu, thứ bảy, chủ nhật tại sân khấu 126, thỉnh thoảng lưu diễn. Thời gian còn lại chị dành cho gia đình và làm việc từ thiện, tổ chức các chương trình văn nghệ cho thiền viện Vạn Hạnh nhân dịp lễ Vu Lan hay Phật Đản. Còn Nhã Phương, một ngày của cô bắt đầu lúc 10 giờ sáng, sau đó là tập dượt ca khúc mới, săn sóc con cái, gặp gỡ bạn bè, đọc báo, xem phim... rồi tập trung trình diễn cho buổi tối ở các tụ điểm. Phương vừa hoàn tất album riêng Tình khúc hồng cho Đài Truyền hình TP HCM và đang chuẩn bị tham gia một chương trình ca nhạc của Hãng phim Tây Đô với nhạc phẩm Thương về miền Trung.
Ở cái tuổi chưa phải là già song cũng chẳng còn trẻ, Bảo Yến và Nhã Phương đang bằng lòng với cuộc sống hiện tại, một bên là gia đình, một bên là lòng yêu mến của khán thính giả gần xa. Những chuyện buồn đã qua ví như chút bụi hồng bám trên mái tóc.
(Theo Thế Giới Nghệ Sĩ)