Nguyễn Ngọc Tư
Vừa ngó chừng, vừa làm cỏ rẫy, bón phân. Tới mùa thì đánh lá mía, hay thu hái bắp, đặt hom khoai mì. Khi nào đói thì vô nhà sau ông Tám, lục cơm ăn, có khi gặp ông đang chẻ củi, làm thơ, có khi nhìn thấy bà ngồi trên xe lăn, coi phim Hồng Kông. Sau đó thì thấy buồn ngủ, lăn ra chiêm bao thấy mình nói chuyện với con Cò, nghe con Cò than, con Vện lúc này chắc thay lòng, không thương nó nữa, nên lãng tránh nó. Việc nói chuyện với con này con kia làm giấc ngủ trở nên hấp dẫn và dễ chịu.
Em ngủ bất cứ lúc nào và dậy bất cứ lúc nào, không ngày không đêm, không một nỗi nhớ nào rõ ràng, và đủ sâu để cho em ngồi nhìn vào. Gió bầy đi rồi gió lẻ tới, mỗi mùa gió có một tiếng nói riêng, nên âm thanh chung quanh em lúc nào cũng thanh thao và trong trẻo.
Lâu ngày, không còn giật mình vì tiếng người nữa. Nên cái bữa ông Tám ra chòi, em không hay. Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một bàn tay lần vào áo em, thì em giật mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi rượu, thịt và nước tiểu. Cũng không chắc cái âm thanh bỏng rát trong cổ họng em là tiếng người, và nếu cố hết sức, thì từ chòi rẫy choi loi này, chỉ người đàn bà đang ngồi xe lăn nghe thấy. Có thể bà cũng không biết đó là tiếng kêu của em, vì nghe như tiếng chó tru, tiếng chim đêm thảng thốt, tiếng mèo gào trong bụi cỏ...
Em lặng lẽ làm đám tang cho ông Tám Nhơn Đạo. Những gì em giữ cho ông đều biến mất, vụt tắt, nắm xôi ông trao cho em ở góc chợ Mai Lâm, tấm vải ông xé áo mình để bó tay em hôm bị dao cắt, cái góc thức ăn mặn sẵn ông để dành cho em trong tủ chén, giọng ngâm Vân Tiên sảng khoái vẳng từ trong nhà những sớm mai, dáng ông ngồi nhẫn nại gội tóc cho vợ những ngày nắng ấm...
Giờ một người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường lè lưỡi liếm để gọi em than thở chuyện đời nó. Lạ lùng, em không còn cái cảm giác ran khắp người. Giống như cảm giác đó đã chết. Từ khi nghe lại tiếng người, mùi người.
Đó là lần đầu tiên em phát hiện ra, vài thứ ở đây tên gọi đều không đúng với bản chất, thí dụ như con Cò thật ra là con chó, con Beo chỉ là một ả mèo mập ú và lười, rẫy bắp nhưng mùa này tàn bắp, chỉ cỏ và gió tơi bời...
*
Không ngờ bà nội Dự lại ở trên con đường mà phải trên mười lần, chiếc Landu chở hàng xuôi ngược qua đó. Một con đường chạy giữa bờ biển và những ngọn núi đá vôi, nhiều chùa trên núi và nhiều sương khói trong chùa. Dự luôn lặng lẽ khi đi trên con đường này, mà trước đây, cậu ta nghĩ, "chỉ vì thấy nó đẹp, mà buồn...".
Cho đến trưa nay thì Dự cũng nghĩ do con đường ít người, hiu hắt nên đi qua đây cậu ta thấy bồn chồn. Khi dừng lại, vào quán nhỏ uống thứ cafe pha bột bắp lạt nhách, nội Dự sai một người đàn bà bưng con hải sâm ngang qua, Dự thấy lạ quá gọi vào nhìn cái con vật lơ đãng vật vờ trong nước như một tảng rêu sẫm màu. Nội Dự kêu chị này nói một câu cũng bâng quơ:
- Thấy mặt cậu giống một bà già hồi trước lang thang khúc này.
Dự nhìn chị trân trân, đồng tử như sắp lăn ra ngoài, cậu ta rút tấm hình từ trong áo ra, ngập ngừng, chị ơi có phải người này. Nội Dự đã dặn trước, nên chị bán hải sâm gật đầu liền, thì bà này nè.
Chị dẫn mọi người đến chỗ bà nội Dự. Một ụ đất bên đường, được đắp bằng tấm áo cỏ chen lẫn hoa mười giờ đỏ. Hoa là do chị trồng. Rồi người trong xóm kéo ra, họ gật gù nói đúng rồi.
Dự phục xuống mồ, hoa nát trên tóc, khóc rống lên. Gã lặng lẽ ngồi nhổ cỏ. Cô gái chạy về xe và lấy một chiếc khăn tay cũ, đã phai màu, dúi vào tay Dự, "cái đây để khô...".
Có thứ âm thanh của con người vẫn còn đẹp, đó là tiếng khóc. Có bữa em vào nhà ông Tám Nhơn Đạo kiếm cơm, em nghe bà Tám khóc. Ông đi đám giỗ.
Tiếng khóc của bà óng suốt, đen nhức nỗi buồn, nó không lẫn màu chua xót, màu tức giận, màu tủi hờn... Thăm thẳm. Đen nhức. Như một cái biển sâu và tối mà bà ngụp lặn chỉ với đôi tay. Em lặng lẽ bưng tô cơm ngồi ngoài hè, chỗ gộc cây ông Tám kê bữa củi đã bị băm nát, uống tiếng khóc ròng ròng.
Rồi một bữa, lặng lẽ tìm phần cơm của mình, em lại nghe tiếng khóc, đã đục ngầu nhàu nát, sau khi bà nghiến răng :
- Con đĩ ! Sao mầy còn lãng vảng ở đây ?
Em vỗ đầu con Cò. Đi. Và nó theo em tới cái quán ở ngã ba. Vài người biết em là con nhỏ câm đang giữ rẫy cho ông Tám. Họ ngạc nhiên thấy em định đi đâu đó mà không có tiền. Một người có giọng nói rất dịu dàng cầm tay em nắn mãi, trời đất ơi, thiệt là tội, lạc cha lạc mẹ, về với chị đi, không làm gì nhiều, mà chị lại trả công.
Em bỗng thấy nghẹt thở, bởi đọc được điều gì đó không thật. Em cảm thấy mùi mồ hôi, hơi thở trơn láng, nhịp tim trôi tuột, những thớ thịt rùng rùng nhảy nhót trên gương mặt bén lẹm của chị, bụng em quặn lên, cổ họng cong oằn, em nôn. Cơn nôn đầu tiên bắt đầu ở đó, quán nhỏ ngã ba đường, nhiều bụi và ruồi. Lúc đó em không biết nó sẽ lặp lại dai dẳng sau này, ở những nơi có người, đông người, nơi người ta vẫn hay nói dối.
Con Cò quỳ dưới chân em, từ tốn liếm láp đống nôn, cơm khô và cá khô. Cái lưỡi dài và mềm của nó như thấu vào lòng em đang khô rốc. Em thấy mát rượi từng vệt. Vài chiếc xe dừng lại mời gọi, cánh cửa mở ra lố nhố những người. Cái cảm giác trào ngược lảng vảng làm em đứng yên, tuyệt vọng.
Em quay lại căn chòi, với con Cò. Đốt củi nướng khoai cho qua cơn đói, đêm nằm nghe những sợi nước ngầm chảy re rắt trong lòng đất, tiếng đuôi thằn lằn rụng từ vách xuống, tiếng con chuột ngứa răng cắn nỉ non vào gốc cây, tiếng lá khô lay lắt rơi đậu trên một chiếc lá khô khác... Em đã đi quá xa trong việc lắng nghe những âm thanh sâu thẳm của bóng đêm, đến nỗi giờ em cũng cảm giác được máu chảy trong con người. Em không biết phải làm gì với khả năng kỳ dị của mình.
Ba ngày sau một người tìm đến, anh nói anh người của chương trình truyền hình "Giã từ lưu lạc", "cha em nhờ tôi tìm em...".
Về nhà. Dự đã rời khỏi chiếc Landu trong một sáng nhiều mây ở chân trời, có vẻ cả ngày sẽ mưa. Không phải tiễn xa, chỉ cần mở cửa xe tải và đu qua, chui vào chiếc xe khách, vậy là thành một cuộc đi. Nhẹ nhỏm. Bình thường. Gã hầu như không vẫy tay. Cô gái ngó Dự, vẻ mặt vẫn lãnh đạm và có chút ngơ ngác. Xe đi rồi cô nhắm mắt ngay, có vẻ cô mệt mỏi vì phải mở mắt nhìn lâu như vậy.
Mưa nhanh chóng phủ lên chiếc xe tải một cái bạt trắng xóa. Gã hút thuốc chậm rãi, thoáng nghĩ về thằng nhỏ phụ xế cũng đang chung một cơn mưa, thoáng nghĩ từ điển cuộc đời mình quá giản dị, nó không có chữ "về nhà". Cũng như "gửi thư", "mua quà", "nhà bếp", "sinh nhật"...
Dường như từ trang đầu tới cuối, chỉ vài cụm từ như "ra đi", "lên đường", và "trôi".
Còn tiếp
Nguyễn Ngọc Tư
(Trích Gió lẻ và chín câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2008)