Nguyễn Hòa -
(Nhân đọc Văn học Việt Nam thế kỷ 20, Phan Cự Đệ chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004)
(Tiếp theo phần 1)
II. Tiểu thuyết - loanh quanh chỉ có thế thôi ư?
1. Không giới thuyết và "đầu Ngô mình Sở"
Ngoài bốn loại chính này, chúng ta cũng sẽ đề cập đến loại tiểu thuyết có cốt truyện phiêu lưu (trinh thám, tình báo), tiểu thuyết hoạt kê và một số loại tiểu thuyết khác" (tr.138). Điều có thể nhận ra ở đây là Giáo sư không hề giải thích tại sao ông lại lựa chọn lối phân loại đó, cũng như không giới thiệu cho người đọc được biết lối phân loại ấy có ưu điểm và hạn chế gì. Ở các chương bàn về từng loại tiểu thuyết, tình hình cũng như vậy, nghĩa là quan niệm của vô số tác giả khác về các loại tiểu thuyết vẫn được Giáo sư "trình chánh" một cách rất phong phú và rối rắm, riêng quan niệm của chủ thể nghiên cứu thì "mất tăm". Và mạn phép được nói rằng cho dù có vị trí khá khiêm tốn trong lịch sử văn chương Việt Nam, tiểu thuyết phiêu lưu lại được nhà nghiên cứu trình bày rất hoành tráng. Để rồi, sau hơn 10 trang giới thiệu các quan niệm về loại tiểu thuyết này ở phương Tây (tr. 119-130), GS Phan Cự Đệ "ưu ái" dành cho tiểu thuyết phiêu lưu ở Việt Nam tổng cộng quãng hơn một trang giấy với mấy trăm từ. Đọc xong hơn 10 trang, tôi ngỡ GS Phan Cự Đệ nghiên cứu tiểu thuyết phiêu lưu ở phương Tây chứ không nghiên cứu tiểu thuyết phiêu lưu ở Việt Nam trong thế kỷ 20!
Đồng hành cùng loại hình học để tiếp cận đối tượng nghiên cứu, GS Phan Cự Đệ xây dựng một chuyên luận về tiểu thuyết "chạy dọc suốt thế kỷ", trong cuộc marathon dũng mãnh và tự tin ấy ông đã làm được một việc "xuất sắc" trong nghiên cứu khoa học là không xác lập, không cụ thể hoá được các quy luật của quá trình phát triển của tiểu thuyết Việt Nam - một thể loại văn chương mà bất kỳ người nghiên cứu văn học nào có quan tâm cũng có thể nhận thấy về tư tưởng - nghệ thuật nó có những bước đi khá đặc thù. Trong Phần hai dành cho tiểu thuyết, Giáo sư phân tích về tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết phiêu lưu... Song, từ phân loại, từ cách thức nghiên cứu của mình, Giáo sư lại không khái quát giúp người đọc nhận diện được những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Việt Nam trong thế kỷ 20, không chỉ về nội dung, về cốt truyện (những yếu tố Giáo sư hay bàn tới) mà còn về toàn bộ các yếu tố có liên quan tới sự phát triển của thể loại... Vì thế tôi muốn lưu ý bạn đọc chớ nên hy vọng nhiều ở chuyên luận này nếu muốn GS Phan Cự Đệ cung cấp "một tổng kết bước đầu về mặt lý luận" đối với tiến trình tiểu thuyết Việt Nam trong thế kỷ 20. Một tổng kết về mặt lý luận, dù là bước đầu, mà không phác họa được toàn cảnh và sự vật động của đối tượng nghiên cứu trong tính quá trình của nó, không rút ra được các kết luận tối giản và cần thiết về tư tưởng - nghệ thuật... thì có lẽ chỉ còn một cách duy nhất là liên tưởng tới câu thành ngữ "treo đầu dê bán thịt chó" mà thôi. Tuy nhiên khi "vận dụng" câu thành ngữ này, tôi vẫn an ủi mình rằng, giữa khát vọng và khả năng thực tế của con người bao giờ cũng có một khoảng cách nhất định!
2. Một thế kỷ "thiếu" vì sơ sài tư liệu
Xin không bàn tới phân loại tiểu thuyết của GS Phan Cự Đệ, trước hết bởi trong công trình ông không giới thuyết phân loại của mình, sau đó vì phân loại tiểu thuyết vẫn là vấn đề còn để ngỏ. Và dù cũng có cách hiểu riêng về phân loại tiểu thuyết, tôi vẫn không trình bày ở đây, vì có thể đẩy bài phê bình vào tình huống "lạc đề". Điều tôi muốn nói là ở Phần hai, dưới cái nhan đề hoành tráng - Tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ 20, lại chỉ thấy GS Phan Cự Đệ điểm danh và phân tích quãng dăm bảy chục năm gì đó của tiểu thuyết Việt Nam, còn đa phần các tác phẩm có vai trò manh nha nền tiểu thuyết mới và những tiểu thuyết xuất hiện quãng 10 năm cuối cùng của thế kỷ thì ông rất ít chú ý, tuy vẫn điểm qua điểm lại như muốn tạo ấn tượng về một "trường" khảo sát được phủ sóng rộng rãi. Theo tôi hiện tượng này có thể giải thích từ hai khả năng: hoặc là theo "logic" của Giáo sư khi nhận xét về Thi nhân Việt Nam thì ông "không thích" nên không đề cập, hoặc là ông chỉ đọc tư liệu gốc... loáng thoáng. Thiển nghĩ, dù theo khả năng nào thì cũng rất đáng trách.
Hàng trăm cuốn tiểu thuyết đã được xuất bản trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, trong đó có nhiều cuốn tuy còn gây tranh cãi hoặc còn có những ý kiến đánh giá khác nhau nhưng ít nhiều đã ghi dấu ấn vào đời sống văn chương và bạn đọc trong từng thời đoạn nhất định, đã không được GS Phan Cự Đệ đề cập trong một chuyên luận mà tự thân tên gọi "tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ 20" đã buộc ông phải đề cập. Qua một thống kê nho nhỏ, tôi thấy chỉ có vài ba cuốn xuất bản sau năm 1990 được Giáo sư quan tâm, đó là Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Thăng Long ký (Nguyễn Khắc Phục), Thuỷ hoả đạo tặc (Hoàng Minh Tường); vài ba cuốn khác được Giáo sư nhắc đến như một liệt kê, kiểu như: Đêm yên tĩnh (Hữu Mai), Yêu tình (Hồ Phương). Hầu hết các tiểu thuyết gây dư luận, được độc giả bình thường quan tâm theo dõi, kể cả những cuốn đã nhận giải thưởng của Hội Nhà văn, đều nhất loạt bị bỏ qua. Ai lại thế? Nếu là bạn đọc bình thường, thì lại đi một nhẽ...!
Cho nên sau khi đọc xong chuyên luận về tiểu thuyết Việt Nam trong thế kỷ 20 của GS Phan Cự Đệ, tôi mạn phép quả quyết đây chỉ là một "phóng chiếu", thêm thắt của Giáo sư từ chút "bột" ông tích lũy được trong công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Vốn liếng từ công trình này đã có thể giúp Giáo sư phân tích tiểu thuyết Việt Nam từ Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách đến Khách ở quê ra của Nguyễn Minh Châu, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, và lớt phớt đáo qua Thuỷ hỏa đạo tặc của Hoàng Minh Tường, giúp công trình nghiên cứu của ông có dáng vẻ cập nhật. Nhưng vốn liếng ấy đã không giúp được gì nhiều khi Giáo sư phải đối mặt với Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hướng), Phố (Chu Lai), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh), Trong vùng Tam giác sắt (Nam Hà)... rồi Lão Khổ (Tạ Duy Anh), Vụ áp phe Đông Dương, Đêm thánh nhân (Nguyễn Đình Chính), Người đi vắng (Nguyễn Bình Phương), Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà)... Và khi ngay cả các tiểu thuyết xuất bản trước những năm 90 của thế kỷ 20 như Phá vây (Phù Thăng), Trên mảnh đất này (Hoàng Văn Bổn), Thung lũng Cô Tan (Lê Phương), Tiểu đoàn trong vòng vây (Triệu Bôn), Sao đen (Triệu Huấn), Ván bài lật ngửa (Nguyễn Trường Thiên Lý), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập)... cũng hoàn toàn vắng mặt thì tôi nghĩ thủ pháp của Giáo sư trong trường hợp này là... "lờ tịt", coi như không có chúng trên đời! Vì lẽ đó, từ góc nhìn của câu thành ngữ phương Tây "hũ nào vang ấy" và để bảo đảm sự chính danh, tôi đề nghị nhan đề Phần hai của công trình nên được đổi thành: Tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ 20 - "thiếu"!
3. Và mấy câu hỏi đặt ra
Từ sự thiếu vắng các tiểu thuyết đã liệt kê trên đây, tôi băn khoăn với những câu hỏi (có thể hiểu một cách "mờ-nhoè", theo logic hình thức hoặc theo logic biện chứng!) như: Phải chăng bởi chúng không nằm trong phạm vi tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết lịch sử và cũng chẳng liên quan gì đến tiểu thuyết sử thi, tiểu thuyết phiêu lưu... nên GS Phan Cự Đệ đã không quan tâm? Phải chăng các tiểu thuyết đó không chứa đựng những phẩm chất khả dĩ được coi là "thành tựu" như khi Giáo sư khảo sát "tiểu thuyết hiện sinh chủ nghĩa" nên ông không bàn tới? Phải chăng lựa chọn phân loại tiểu thuyết từ loại hình học chính là một thủ pháp ngõ hầu giúp GS Phan Cự Đệ lẩn tránh những tác phẩm văn chương mà ông chưa (không?) có điều kiện khảo sát? Các câu hỏi này có thể là yêu cầu quá cao và thiếu khách quan với một "nhà lý luận nghệ thuật bất đắc dĩ" như Hoài Thanh đối với Thi nhân Việt Nam, nhưng trong nghiên cứu khoa học ở đầu thế kỷ 21 này, chúng lại là một yêu cầu không thể bác bỏ đối với một nhà nghiên cứu như GS Phan Cự Đệ. Hy vọng Giáo sư sẽ giải thích sự bất cập, đặng tháo gỡ các tồn nghi có thể xảy đến với công trình.
(còn nữa)