Nguyễn An Nguyên -
(Đọc "Phù phiếm truyện", truyện ngắn nằm trong tập sách đoạt giải nhì Văn học tuổi 20 lần 3 của tác giả Phan Việt).
Nhưng mỗi cá nhân hầu như chỉ chảy trong/và chảy lại dòng tư tưởng của một nhân loại mang tính lịch sử cụ thể. Tôi hiểu rằng suy nghĩ của Phan Việt, cũng như việc tôi gặp chị cũng tất yếu như thế. Tôi cố gắng nhớ lại dòng chảy của tôi, để hình dung về mạch tư tưởng mà Phan Việt đã chảy qua, chứ không phải Phù phiếm truyện - như là một lát cắt của nó.
Lần đầu tiên tôi cảm nhận được nỗi sợ hãi phải đặt mình trong sự tĩnh mịch của nội tâm là trong những năm đầu du học. Khi ấy, tôi đột nhiên bị đẩy ra ngoài cuộc bị sống - bị đẩy đi, bị đủn tới, bị lôi kéo bởi muôn ngàn sự kích thích nhỏ của đời sống nhắng-cả-lên ở cái thế giới Hà Nội của tôi - chật hẹp và chằng chịt. Khi đời sống bên ngoài gần như tịch mịch: không có sinh nhật, du ngoạn, ma chay, cưới hỏi, ăn khao, mừng tết. Lần đầu tiên (bị buộc phải) tư duy miên man bất tuyệt nhiều tháng ròng, tôi đã chảy lại cái dòng chảy tư tưởng mấy trăm năm của bộ môn mà tôi nghiên cứu. Mỗi khi ngoi lên khỏi cái dòng chảy ấy và ngoảnh đầu nhìn lại Việt Nam, tôi thấy Việt Nam ồn ào khác hẳn nơi tôi đến. Tựa như một câu chuyện về nhạc sĩ dương cầm về cuối đời nghe được những âm thanh mà không ai khác nghe thấy: VN ồn ào trên đường phố, trong nhà, vào lúc rạng sáng hay trong đêm tối, trong cả giấc ngủ và tư duy - đến độ người sống ở đó không nhận ra sự ồn ào ấy.
Nếu một cảm nhận của ta chỉ là tương đối, chỉ tồn tại trong so sánh với các cảm nhận khác (như nóng chỉ là nóng hơn một cái khác), và nếu người ta sinh ra - sống và chết đi trong ồn ào, thì khi sự vắng bặt trong tâm tưởng hiện diện, người ta cũng có thể nói được rằng đó chính là âm thanh của im lặng. Phan Việt đã cảm được âm thanh của im lặng - và những âm thanh như thế thực ra lại không quá hiếm, miễn là người ta đi xa chốn ồn ào một chút. Nghe nó, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy nhiều điều. Ví dụ như sự phù phiếm của hầu hết những "lý cớ" mà người ta vẫn thường nhầm tưởng là "lý do" và vẫn quen dùng để giải thích việc mình làm hàng ngày. "Sự tự ý thức về sự phù phiếm cuối cùng thường cũng không ngăn cản được bản thân sự phù phiếm". Những triết lý kiểu như thế, tôi hiểu rằng, đã đến rất tự nhiên với chị, như thể một tiếng thốt của tư duy vô thức (kể cả sau khi tự ý thức được về khả năng nhận thức). Một sự gặp lại khác, là người du học bị tách khỏi đời sống ồn ã inh tai thường có nhu cầu re-connected với những kích thích, những xung động mà họ đã rất quen thuộc. Và qua đời sống ảo qua Internet - vốn đan xen chằng chịt với cái gọi là đời sống "thực", sẽ tương đối dễ dàng nhận thấy tính ảo - ước lệ của đời sống trước đây. Ý tưởng này đã mang trong mình vị mặn của Phật giáo Đại thừa: "Vạn pháp duy tâm tạo" (các pháp chỉ do tâm mà biến hiện).
Khi một người bắt đầu quán tưởng như thế này, thì tức là người ấy đang đi dần đến một bước ngoặt về cách nhìn thế giới. Người ta có thể dừng lại (bản thân sự dừng lại cũng là một dòng chảy - chảy mà không biến đổi) để trở thành một người hiện sinh (Ở đây, tôi coi hiện sinh như là một cảm quan về đời sống, chứ không phải là một sản phẩm duy lý và tư biện về đời sống). Người ta cũng có thể bước tiếp để khám phá thế giới của im lặng (đúng vậy - đó là cả một thế giới, cũng nhiều màu sắc như thế giới ồn ào chát chúa bên ngoài K, chứ không phải là một nốt lặng tạm thời và lạc lõng trong một bản âm thanh miên viễn và phù phiếm của đời sống). Thường thì người phương Đông sẽ theo ngả đạo Phật, vì nó là một dòng sông tư tưởng mạnh mẽ đã cuộn chảy về phía tịch lặng từ hàng ngàn năm.
Nhưng tôi biết, và có lẽ Phan Việt cũng đã biết, chị mới chỉ bước một bước đầu tiên vào thế giới của im lặng. Ít ra là trong Phù phiếm truyện, tác giả đã chỉ ấn vào K nhận thức về sự phù phiếm và sự "thừa thãi" của suy nghĩ và suy nghĩa. Theo nghĩa này, Phù phiếm truyện mang trong mình màu sắc "Trang hóa bướm" của Lão giáo. Hiển nhiên, nhận ra sự phù phiếm, tự nó không đủ để ngăn cản bản thân sự phù phiếm. Nhưng phủ định đời sống phù phiếm tuyệt đối cần thiết để vượt ra ngoài vòng phù phiếm, cũng như người đang học Thiền phủ định "núi không là núi, nước không là nước". Phủ định được nó - trong duy lý - là đã bước đến trước cửa Thiền. Chỉ cần tiến thêm một bước nữa, quán niệm về sự phù phiếm ấy cho trọn vẹn (và không cần tìm kiếm một cái gì khác - như thượng đế), thì chính sự nhận thức tròn đầy về sự phù phiếm sẽ làm thay đổi dòng suy tư bất tận của chính mình - tức là cái tôi của con người. (Điều này hẳn nhiên không xa lạ với đạo Phật: đây chính là phép quán tâm vô thường). Khi dòng suy tư bị thay đổi theo hướng ngày càng ít bị ngoại giới xô đẩy hơn, dòng chảy của nó phẳng lặng hơn, nước trong hơn, và nhiều thứ mới sẽ hiện ra. Liệu những thứ mới hiện ra trong dòng suy tư khi tâm đã phẳng lặng có phải là một sự phù phiếm khác không? Ý kiến của người trong thế giới phù phiếm sẽ không có ích gì cho câu trả lời, cũng như đừng hỏi con cá về thế giới của loài chim. Xin không nói thêm gì nữa, vì lúc này tôi chưa đủ lời.
Phù phiếm truyện, với tôi, chưa phải là một truyện ngắn thâm hậu. Nó nhồi tư tưởng - dù màu mỡ - của tác giả vào hai nhân vật không được khắc họa công phu và có đời sống riêng. Truyện không hề có thoại, và cuộc gặp của K. với cô bạn gái chỉ là cái cớ cho tác giả tâm sự. Người đọc có cảm giác đang nói chuyện với chính Phan Việt chứ không phải chiết ra từ K. Bỏ chúng đi, Phan Việt hiện nguyên hình và những ý tứ sâu sắc trong truyện chẳng mảy may thay đổi. Phù phiếm truyện có vẻ như là một tiểu luận trá hình thành một truyện ngắn - và điều này rất phổ biến trong văn học trẻ. Những truyện không có chuyện (và thường khi - không có nhân vật) là một đặc tính nổi bật trong những tác giả nữ trẻ như Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Châu Giang... thường là do bút lực chưa đủ thâm hậu và tác giả chưa đủ khả năng kết tinh những chi tiết của đời sống. Xét về nghệ thuật dựng truyện, Phù phiếm truyện chưa bằng các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay Hemingway. Ở đó, những triết lý không lộ thiên, mà nằm dưới những lớp tro xám của chi tiết thường nhật - tưởng chừng rất tình cờ, nhưng thực ra đã được tinh lọc đến cao độ để hiện ra dưới vẻ tình cờ.
Tuy nhiên, tôi trân trọng sức nghĩ của Phan Việt, và tin rằng sức viết của chị sẽ ngày càng mạnh hơn. Một chi tiết đẹp cho thấy một sức viết đang tiềm tàng: "Lạ là một thứ added value, không có hình thù cụ thể nhưng có thể truy dấu qua hóa đơn tính tiền khi K. trở về nhà" (mặc dù những câu tiếp theo trong đoạn này hoàn toàn có thể bỏ đi được. Bis: câu kết của truyện đặc biệt lạc lõng, không có gì trước đó khiến người đọc có thể thổi vào đó một ý nghĩa sâu sắc). Có lẽ Phan Việt rất hiểu điều này khi trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ, chị đã nhấn mạnh rằng chị mới chỉ bắt đầu. Xin mượn lời một nhà văn già từng nói với một nhà văn trẻ để kết thúc bài này: "Tôi thích văn chương Phan Việt, nhưng còn thích con người của chị hơn".
Nguyễn An Nguyên
Houston, tháng 8/2005