Trần Thiện Khanh -
Màu tự nhiên [ 1] gồm 34 bài. Mỗi bài "làm nổi lên trên bề mặt của ý thức một cấu trúc tâm thức đã bị lãng quên, một dấu hiệu trùng hợp với ấn tượng đã có"[ 2], đồng thời ứng với một tình huống nghiệm sinh, một sự nhận thấy "có một cái gì đó lờ mờ trong sương mù, một cái gì tuyệt đẹp, thậm chí tới mức đáng sợ hay gây đau đớn" ở chủ thể. Màu tự nhiên chủ về tình nên xa lạ với thứ thơ ảo thuật, trọng ý hứng nên khác hẳn với lối bày biện những ngôn từ kiểu cách. Hàm Anh đã tạo ra được một thi pháp mới trên nền của những cách cảm, cách nghĩ đã có nhiều đổi thay rất táo bạo. Màu tự nhiên chọn lối về với những gì thơ nhất, hàm súc và nhiều dư ba.
Hàm Anh sinh năm 1970 tại Hà Nội, từng học văn khoa Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau đó được Trường Viết văn Nguyễn Du tuyển chọn gửi sang học tại Trường Viết văn M. Gorki - Matxcơva. Các bản dịch thơ Anna Akhmatova của Hàm Anh đoạt Giải B (không có giải A) cuộc thi dịch văn học do Hội Nhà văn Việt Nam và báo Văn nghệ tổ chức năm 1993 - 1994. Hồn thơ Anna Akhamatova có thể đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc thơ không ngừng tìm tòi sáng tạo của Hàm Anh.
Màu tự nhiên được công bố năm 2008. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã đọc kỹ bản thảo cuốn này và nhiệt tình cổ vũ để cuốn sách sớm ra đời. GS. Phạm Vĩnh Cư cho rằng tập Màu tự nhiên đáng đọc nhất hiện nay. Dịch giả Trịnh Lữ, người đã chuyển ngữ, thiết kế trang trọng khung bìa, khi viết lời giới thiệu đã hứng khởi khẳng định Màu tự nhiên đem đến cho độc giả một giọng thơ trữ tình đích thực, đẹp đẽ đầy hứa hẹn. Nguyễn Hữu Hồng Minh gần đây cũng có đôi dòng giàu cảm hứng giới thiệu tập thơ này trên báo Đà Nẵng. Chắc hẳn Màu tự nhiên phải có một mầm lạ nào đấy và vì thế người ta sẽ còn đọc nó nhiều hơn bây giờ. Màu tự nhiên lưu dấu ngôn ngữ, gương mặt của Hàm Anh, đồng thời dự báo rằng, người thơ ấy sẽ thuộc về mùa sau của thơ đương đại. Mùa tân cổ điển.
Đi tìm lối riêng: tôi trao cho bạn con chữ...
Sự viết - ở Hàm Anh trở thành một nhu cầu giải thoát, một sự đi tìm cho mình một gương mặt, một số phận, một điệu hồn. Hàm Anh soi vào thơ để nhận rõ bản thể của mình, dùng thơ để diễn giải cảm nhận, cảm giác. Chị viết với ước mong nhận diện hình tướng muôn mặt của cuộc sống và gọi được tên cái vô hình đang ẩn khuất đâu đó quanh chúng ta. Màu tự nhiên được viết từ một ước muốn "khơi dậy những hạt mầm đã rơi vào cõi vô thức". Đọc Hàm Anh, có cảm tưởng, người viết cứ một mạch mà làm thành thơ, được thơ ở ngoài chủ đích.
Tôi trao cho bạn một con chữ
bạn hãy để nó rơi trong lòng...
Để sáng tác thơ người viết cần có năng lực đặc biệt về ngôn ngữ. Năng lực ấy không chỉ biểu hiện ở sự lựa chọn, kết hợp ngôn ngữ để tạo thành một kiểu nói có thi tính mà còn bộc lộ khá rõ cách tạo ra ngôn ngữ mới, ngữ pháp mới. Chữ cần có một đời sống của riêng nó. Hàm Anh không biến các câu chữ của mình thành phù hiệu, hoặc thành công cụ đơn thuần chuyển giao thông tin, tình cảm. Chữ ở Màu tự nhiên "có trọng lượng riêng, có giá trị riêng" (R. Jakobson). Chữ có độ dư riêng. Độ dư này, một mặt phụ thuộc vào quan hệ giữa các chữ trong một ngữ đoạn cụ thể, mặt khác do kinh nghiệm cảm thụ của người đọc quy định.
Tôi tin chữ ở thơ sẽ dần bị han rỉ đi nếu nhà thơ chỉ găm nó vào một hiện thực nào đấy. Thơ luôn đòi hỏi những câu chữ của nó, trong nó có một chút gì mơ hồ, lung linh. Chủ thể sáng tạo không nên và không thể chỉ đổ cho chữ một hoặc vài ý nghĩa cố định nào đấy. Chữ thơ được mở ra vô hạn ngay trong chức năng thẩm mỹ của nó và trong mỗi lần độc giả đọc nó. Mỗi lần đọc thêm một cảm nhận về trạng thái tiềm tàng của chữ. Chữ biến hoá khôn lường, ở chữ luôn có những điểm chưa xác định. Cõi thơ rộng rinh không bến bờ.
Đọc thơ sợ nhất chạm phải chữ khô, hoặc chữ quá nồng. Câu thơ đích thực không cần người viết phô diễn chữ. Nếu người làm thơ chủ tâm đặt vào chữ một tấm lòng tri kỷ, hồn hậu thì độc giả ắt sẽ đọc nó bằng tấm lòng tri âm. Nhà thơ trao cho độc giả con chữ có thi tính. Con chữ đó tất sẽ có khả năng sinh sôi, nảy nở trong các cách chơi, tài chơi xúc xắc chữ của họ. Chữ tạo sinh - cấu trúc cho nó ý nghĩa, âm thanh, nhạc điệu. Giá trị thẩm mỹ của chữ được tạo sinh liên tục trong sự đọc để bài thơ chuyển thành một khúc ngân. Độc giả không chỉ ngẫm ngợi để đánh thức ý nghĩa khả thể của nó, mà cần phổ vào đó xúc cảm đẹp, suy nghĩ đẹp. Đọc để ký thác một đời sống đồng điệu, muôn điệu với tác giả.
Màu tự nhiên trọng chữ. Cõi thơ được hình dung qua cõi chữ. Có một thứ diêm chữ độc đáo trong thơ Hàm Anh.
Soi vào cuộc chữ: viên xúc xắc sáu mặt biến hóa
Con đường mà Hàm Anh rong ruổi đưa các con chữ của chị đến cái tận cùng của cảm giác, cảm nhận. Màu tự nhiên nói nhiều đến "anh". Một nhân vật anh hư ảo, huyền hồ, đầy những biến thể. Anh trong suốt, "không màu" nhưng choán ngợp tâm hồn người viết. Anh trở thành một ký hiệu, mà cái được biểu đạt ở anh luôn bi diễn dịch sai. Hàm Anh muốn chiếm lĩnh "cái anh" chưa bị diễn dịch, muốn thấy một anh không chơi trò xúc xắc.
Em muốn nhìn thấy anh
thật rõ
hãy tắt đèn đi, hãy tắt nhạc đi,
hãy tắt cả bóng tối
vâng, bóng tối
đen đặc
đầy ngụ ý
Em cần một cái gì đó rỗng, không màu
Hay một màu không thể gọi được tên
ngay lúc này
nhanh lên!
"Anh" ở Màu tự nhiên tưởng rất cụ thể mà trừu tượng. Cụ thể bởi vì anh đang hiện hữu. Anh chơi trò xúc xắc. Còn trừu tượng vì đằng sau sự hiện hữu có tính cách lâm thời và cá biệt ấy còn có một anh khác; "anh" đích thực đang hiện ra trong đam mê, khao khát của em. Anh im lặng, không tham gia vào trò chơi ngôn từ. Em ước muốn chiếm lĩnh được cái màu tự nhiên rất đỗi nguyên sơ ở anh. Em ở Màu tự nhiên cần chạm được vào khoảnh khắc mà mọi thứ đều trở nên trong suốt để cảm nhận được trạng thái nguyên khởi nơi anh. Màu tự nhiên có bóng dáng tư duy trực giác. Ở đó, Hàm Anh bộc lộ ý hướng nhận thức chiều sâu của thế giới tự nhiên bằng trực giác, trực nhận. Chị muốn vượt qua cái dạng thức anh trình hiện trước mặt để "nhìn rõ" cái tôi bề sâu, đã thoát khỏi mọi hệ lụy, phiền tạp trong cái phút chốc bất ngờ. Cấu trúc câu: muốn nhìn thấy rõ, cần một cái gì đó rỗng, không màu... cho thấy chủ thể phát ngôn có nhu cầu muốn xoá đi các vách ngăn dẫn đến cái bản thể đích thực của đối tượng. Các chữ ngay lúc này, nhanh lên... nối nhau tô đậm cái khoảnh khắc mà chủ thể đã lắng nghe được những xung động bên trong của "một cái gì đó rỗng, không màu". Hàm Anh muốn cảm thấu đối tượng, nhưng không phải bằng suy luận lôgíc mà bằng tưởng tượng, cảm nhận. Hàm Anh đã trực ngộ được dạng xuất hiện và tính không của một thể tính. Chị dùng chữ "Rỗng" và "không màu" để biểu đạt không tính của mọi sự vật, hiện tượng. "Rỗng" chứa đựng tình yêu, tạo lập tình yêu, sinh ra sự hoà hợp và các trạng thái hiện hữu khác. Hàm Anh dùng biểu thức "không thể gọi được tên" để biểu đạt cái vô, "hữu sinh ư vô". Chị nhận ra tình yêu không chứa đầy trong lời nói; tình yêu được dấy khởi lên trong im lặng và hành động. Sự nhìn ở đây xảy ra trong tâm thế tĩnh lặng và không "sắc" (tắt nhạc, tắt đèn, tắt bóng tối) nên cũng khá gần với khái niệm đốn ngộ của Phật giáo. Dọc bài thơ Màu tự nhiên có một dòng ý thức liên tục về thể tính và duyên khởi của mọi sự vật. Dĩ nhiên, trong ý nghĩa tượng trưng của nó, hình ảnh màu tự nhiên, đã nói với chúng ta, rằng người phát ngôn ở văn bản này đã chủ ý chiếm lĩnh đối tượng trong tính cách toàn vẹn, có chiều sâu, và chân thực nhất của nó. Màu tự nhiên đem đến cho phiên thơ hôm nay một giọng điệu riêng, một cách tư duy riêng với một kiểu kiến trúc ngôn từ độc đáo, thú vị.
Thơ, có lẽ được mở ra trong sự thức nhận những ranh giới, ranh giới giữa cái nên thơ và cái không nên thơ, giữa cái cần được nói lên bằng thơ để thơ hơn nữa và cái cần phải diễn đạt bằng thứ văn xuôi đời thường. Thơ của Hàm Anh xác nhận ranh giới giữa một cái tôi kiêu hãnh với đám đông đầy quyền năng; giữa sự im lặng, sợ hãi với những tuyên ngôn ngụy tạo; giữa những trang trí màu mè với một màu tự nhiên ban sơ quá đỗi... Hàm Anh nhìn thấy trong quan hệ với cái tôi, đám đông có xu hướng đoạt quyền lý giải các hiện tượng, nó lấn lướt quyền kiến tạo thế giới; nó kiên quyết biên tập và hiệu chỉnh lại toàn bộ cảm xúc, tư tưởng của cái tôi cá thể; ngôn ngữ của nó hướng đến những siêu diễn giải, những siêu truyện. Đám đông cố gắng truyền thông quyền năng của mình bằng cách tuyên bố mình có quyền định ra các quy tắc có thể tiên quyết mọi hành động ngôn từ và tư duy của cá thế, buộc phát ngôn của từng cá thể phụ thuộc vào diễn ngôn của nó và chấp nhận nó; đám đông chỉ tạo được ranh giới bề ngoài để củng cố quyền lực của mình, thực chất nó luôn nhắm đến sự nhất thể. Nghịch đối với đám đông, ngôn ngữ của cái tôi thường chăm chú vào những diễn giải cục bộ, cái tôi diễn giải chính mình thành một giá trị, một kiểu tồn tại, cái tôi cứ liên tục tạo ra các ranh giới theo những xác tín độc lập của mình; cái tôi hoài nghi những lời nói nhân danh đám đông, và do đó, nghi ngờ cả sự hợp thức hóa tri thức nhân danh nó. Tính hiện đại trong thơ Hàm Anh một phần biểu lộ ở đó.
Tôi đã im lặng
mười năm
dấu sợ hãi vào kiêu hãnh
Đám đông
quyền năng lấn lướt, nhấn chìm
sức hút tuyên ngôn, ngụy tạo
Đám đông
vẫn còn đó muôn đời
nó chỉ đổi màu thôi
Có ai đấy không?
Cứu-tôi!
Thơ của Hàm Anh hấp dẫn ở những trò chơi ngôn ngữ mới. Tác giả không chờ đợi người đọc chỉ đi làm cái việc kiểm chứng những câu chuyện mình kể, mà muốn người đọc cùng tham gia chơi trò xúc xắc, cùng tạo nghĩa trong các "nước đi" và cho cả cuộc chơi lắm cung bậc, nhiều trạng huống. Cấu trúc văn bản thơ của Hàm Anh luôn mở ra kiểu trò chơi đó, để mọi người đều có thể tham gia chơi, chỉ cần người chơi hiểu và chấp nhận rằng mọi khả năng đều có thể xảy ra. Màu tự nhiên quy ước, sự đọc không bon đi đều đều. Sự đọc "buộc phải trở thành siêu - đọc", đọc biểu tượng, đọc các ký hiệu trong cấu trúc của nó.
Chúng tôi thử khảo sát một cách chơi xúc xắc trong văn bản Lau sậy. Ở Lau sậy, Hàm Anh đã tạo một chủ thể phát ngôn về lịch sử, theo nghĩa những dữ kiện khách quan được mô tả trong các phát ngôn sở thị có can hệ hoặc được gán cho chính người đã nói ra.
Những người đàn bà như lau sậy
hát lên nhờ gió
tiếng reo u buồn...
Có một chiều thu
bạc tóc
một mình
nghe lau sậy bên sông...
(Lau sậy)
Do chỗ chủ thể của phát ngôn mở đầu không xưng Tôi, nên cách chơi của "anh ta" đồng thời thông báo rằng, người nói mặc dù có bộc lộ chủ thể tính khi so sánh, quy chiếu từ về vật, nhưng lại không có ý định xác định cho mình một thẩm quyền đánh giá đặc biệt nào đó, và do đó, cả quyền sở hữu phát ngôn đó. Nói cách khác, sự đánh giá - mang "tính khái niệm" này không quy chiếu về một hoàn cảnh có thật cụ thể, và không được gắn cho một chủ thể nhất định, nó có thể được gán cho những cái Tôi khác hoặc có thể xảy ra những cách đánh giá khác. Suy rộng ra, chủ thể phát ngôn ở cả ba phát ngôn mở đầu đã chấp thuận rằng sự có mặt của mình ở đấy không mấy quan trọng, bởi vì trên thực tế tư cách cá nhân của người phát không hề ảnh hưởng đến đối tượng mà phát ngôn nói đến. Chủ thể phát ngôn tạo ra quy chiếu giả để độc giả khi tham gia vào trò chơi ngôn từ sẽ có ảo giác về hiện thực. Ảo giác này đảm bảo cho một giá trị khách quan, đến mức khiến cho người nói chỉ cần thông báo lại điều ấy cũng đủ tạo ra một tiền giả định giúp anh ta tin tưởng rằng thông điệp của mình sẽ được người nhận hiểu theo cách mà họ đã định, và họ sẽ hiểu đúng những gì mà họ đã gợi ra.
Dễ thấy, nếu ba dòng đầu, trong trò chơi tạo ra chủ thể phát ngôn về lý luận, người chơi đã tái hiện được một hiện thực khách quan ở bên ngoài mình thì hai dòng sau, trong trò chơi tạo ra chủ thể phát ngôn về lịch sử, người chơi đã tự thiết lập và xác nhận mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân mình với cái nội dung vừa được nói ra ở trên. Điều này sẽ được bộc lộ rõ hơn, khi chúng ta quan sát thấy - người đọc Lau sậy chuyển dần sự chú ý của mình sang bản thân người phát ngôn và gán cho người đó tất cả đặc điểm vừa được miêu tả. Hàm Anh dựng chân dung người đàn bà trong cái nhìn đã được đặt định trước về họ. Họ trở thành một tha thể, được khu biệt về trật tự so với đàn ông.
Có thể rút ra quy tắc chơi ở Lau sậy ở mấy điểm sau: người phát ngôn chỉ có quyền nói về mình khi đã thiết lập được một hình ảnh nào đó để các phát ngôn sau có thể quy chiếu về nó, hoặc chỉ được ngữ cảnh hoá phát ngôn của mình sau khi một chủ thể phát ngôn nào đó đã gắn cho đối tượng được nói đến những đặc điểm chung nhất định. Lau sậy tạo ra trò chơi hồi chỉ; người chơi nhân bội nghĩa của phát ngôn sau bằng cách tham khảo ngược lại phần đã mô tả trước đấy. Lau sậy trao thẩm quyền phát ngôn cho người đã chiếm lĩnh được những tri thức về giới. Cũng chính ý hệ giới đã kiểm soát, tiên quyết cách chơi và mục đích chơi của người chơi. Chúng ta không thấy người chơi vận động ra ngoài cái định nghĩa của chính mình về mình và về cái thế giới mà nó phụ thuộc. Ở cấu trúc bề sâu, Lau sậy duy tình và chứa đựng ẩn ức về thân phận phái tính.
(Còn tiếp)
Hà Nội, 22/11/2009