NSƯT Quang Hưng. |
- Ông có kỷ niệm nào khó quên?
- Kỷ niệm nhiều không thể kể hết được. Nhưng có lẽ ám ảnh nhất là những ngày đêm năm 1946 ở ngã tư Khâm Thiên, khi tôi hát cho anh Sơn, một chiến sĩ cảm tử quân nghe bài Bắc Sơn ca, hát say sưa đến nỗi ngủ lịm trên tay các anh lúc nào không biết. Buổi sáng tỉnh dậy, mọi người mang xác anh về, toàn thân bê bết máu. Lúc ấy còn bé, có thể tôi chưa cảm nhận hết sự mong manh giữa sự sống và cái chết, nhưng nỗi đau sau cái đêm nghiệt ngã ấy đã nuôi lớn tâm hồn tôi. Còn kỷ vật thiêng liêng nhất là chiếc áo trấn thủ mẹ khâu cho. Nó đã theo tôi trải qua 60 ngày đêm khói lửa trong lòng Hà Nội. Hai vai áo sờn rách vì địu bị cói đựng xăng, lựu đạn và cơm nắm tiếp tế cho anh em chiến sĩ. Hàng chục miếng vá trên tấm áo là của các bà, các mẹ, các chị nay đã không còn.
- Ông đã thể hiện rất thành công bài hát “Tiến về Sài Gòn” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Ông có khó khăn khi hát bằng giọng miền Nam?
- Năm 1967 đánh dấu nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc đời ca hát của tôi. Khi chuẩn bị cùng đoàn ca múa quân giải phóng đi biểu diễn một số nước trên thế giới, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước ở miền Nam ra, đề nghị tôi ghi âm tác phẩm của ông bằng cả giọng miền Bắc và Nam để phát sóng toàn quốc. Tôi đã cùng chung chiến hào với nhiều chiến sĩ miền Nam, nên cũng dễ hát giọng này. Băng cát-xét được mang vào Sài Gòn, sau đó bị thất lạc. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước phải cất cuộn băng thứ hai vào hộp đạn, giấu trong thùng gạo chuyển vào mặt trận. Đến ngày toàn thắng 30/4/1975, Tiến về Sài Gòn đã vang lên khắp thành phố. Ở ngoài Hà Nội cũng ngày đó, tôi được nghe giọng hát của mình, niềm vui không tả xiết. Bài hát này tôi đã hát bằng cả tấm lòng vì miền Nam thân yêu. Lúc đó, trên cánh võng một đêm khuya giữa rừng, vợ tôi cũng được nghe, khi cùng đồng đội xung kích vào mặt trận Khe Sanh. Tiến về Sài Gòn cũng trở thành kỷ niệm chung của vợ chồng tôi.
- Cuộc tình của ông với nghệ sĩ múa Hoàng My như thế nào?
- Cũng vất vả và trường kỳ lắm. Năm 1956, Hoàng My là hoa khôi trong đội văn công của sư đoàn 332. Tôi là lính pháo cao xạ của thủ đô. Cả hai được chọn tham gia Liên hoan Thanh niên Thế giới. Ngày ấy, Hoàng My 17 tuổi, rất xinh đẹp nên có nhiều chàng trai để ý, tán tỉnh. Cũng chẳng hiểu duyên số do trời sắp đặt thế nào mà tôi chinh phục được cô ấy, loại một số đối thủ mà sau này trở thành những người bạn thân thiết của hai vợ chồng. Chúng tôi đã có những kỷ niệm thật đẹp và lãng mạn trong chuyến lưu diễn ấy. Năm 1959, chúng tôi tổ chức lễ cưới ở khu tập thể 17 Lý Nam Đế. Đám cưới giản dị trong trang phục văn công quân đội, có kẹo bột ngọt bùi, thuốc lá Tam Đảo, nước chè xanh và lời ca tiếng hát của bạn bè. Sau ngày cưới một tháng, tôi sang Liên Xô học tập 5 năm tại Nhạc viện Tchaikovsky, trở về công tác tại Nhà hát Giao hưởng Nhạc vũ kịch Việt Nam, đến năm 1990 thì nghỉ hưu. Tôi bây giờ đã 69 tuổi, còn Hoàng My đã 40, chúng tôi chuẩn bị đám cưới vàng rồi.
- Ông chịu ảnh hưởng từ ai trong gia đình?
- Cha tôi là cụ Lê Phổ Văn, giỏi Nho học và Tây học, từng cắp tráp theo hầu cụ Phan Bội Châu. Mẹ tôi là cụ Nguyễn Thị Hiên, đàn hay, hát giỏi, từng là một giọng ca trù nổi tiếng của Hưng Yên hồi đầu thế kỷ trước. Có lẽ yêu nghệ thuật là gene mẹ, nhưng sự cứng cáp rắn rỏi sau này tôi có được nhờ thừa hưởng từ bố.
- Ông có cảm nghĩ gì khi đời sống âm nhạc hôm nay có nhiều điều khác biệt so với thời của ông?
- Tôi mừng vì sự tiếp thu cái mới của lớp trẻ hôm nay so với thế hệ đàn anh, nhưng buồn vì sự cẩu thả và nạn hát nhép miệng lan tràn. Tôi cũng lo về thực trạng lăng-xê, nổi tiếng quá sớm so với thực lực của mình. Cái gì cũng phải được trả về đúng giá trị thực của nó. Thời gian sẽ sàng lọc những nghệ sĩ thực tài.
- Phần thưởng nào lớn nhất trong sự nghiệp ca hát của ông?
- Đó là khán thính giả đã nghe tiếng hát của tôi gần 50 năm qua. Bên cạnh đó, tôi đã được hát những tình khúc hay nhất trong một thời hào hùng của dân tộc, những tác phẩm của các nhạc sĩ tài danh như Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Đỗ Nhuận, Huy Du. Không phải ai cũng có được vinh hạnh đó.
- Ông có day dứt vì điều gì không?
- Chẳng có điều gì day dứt cả. Tôi đã làm tròn bổn phận công dân của mình. Chỉ tiếc là quỹ thời gian không còn nhiều, tôi và bạn bè tóc đã bạc trắng cả rồi.
- Phương châm sống của ông là gì?
- Hãy gắng sống lương thiện. Ông cụ tôi đã dạy điều này từ khi còn bé. Và bây giờ tôi cũng dạy các con cháu điều ấy. Bây giờ, tôi thích câu thơ của nhà văn hóa lớn Đào Tấn: Đã về cởi áo lau son phấn / Trả mọi vinh quang lại cho đời.
(Theo Phụ Nữ)