Nhà văn Coetzee. |
Với độc giả Việt Nam, J.M. Coetzee mới chỉ được biết đến qua bản dịch "Ruồng bỏ" (Disgrace: điếm nhục, nhục nhã). Để tìm hiểu thêm về nhà văn vừa đoạt giải Nobel năm nay, VnExpress xin giới thiệu bài viết có tựa đề "Đường đến lò sát sinh" của nhà phê bình văn học Đức nổi tiếng Paul Ingeenday, đăng trên nhật báo Frankfurter Allgemeine.
Hiếm khi Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển giải thích cho quyết định của mình một cách phi chính thống như ở lần công bố giải Nobel Văn học năm nay cho nhà văn lớn của Nam Phi J.M. Coetzee. Thực ra họ chỉ làm đúng bổn phận của mình, đó là ưu tiên thứ nghệ thuật vượt trội trước những thứ nghệ thuật bình dân, tròn trịa và đa cảm khác. Văn học có thể thay đổi xã hội không? Không thấy nhắc tới. Nhưng ít ra nó cũng làm con người sống tốt hơn chứ? Viện Hàn lâm im lặng. Và điều đáng nói ở đây là giải Nobel được trao cho Nam Phi. [1]
Thay vì đó, họ khen ngợi những tiểu thuyết của vị giáo sư văn học sáu ba tuổi đến từ Cape Town, người từng được trao nhiều giải thưởng, là có “cấu trúc rắn chắc, đối thoại nén chặt và vẻ điêu luyện trong phân tích”. Theo những lời từ Stockholm, thì Coetzee là “một nhà hoài nghi triệt để”, người “không nhân nhượng khi phê bình chủ nghĩa duy lý tàn nhẫn và thói đạo đức giả của văn minh phương Tây”.
Và còn nữa: “Sự trung thực trí thức của ông phá vỡ tất cả những tín điều của thói úy lạo, và cách ly mình với trò hề rẻ tiền của lòng hối hận và sự xác tín”. Sau V.S. Naipaul và Imre Kertesz, đây là lần thứ ba liên tiếp, giải Nobel văn học được trao vào tay những nhà hoài nghi triệt để, mà sự xuất hiện của họ trước công chúng chắc chắn chẳng hứa hẹn một sự kiện gì có tính “văn dĩ tải đạo” cả. [2] (Có lẽ nhà học giả rất muốn từ chối xuất hiện ở lễ trao giải Nobel lần này, cũng như ông đã từng làm vậy trong các lần trao giải Booker).
Coetzee mang đến sự bất ổn
Coetzee không mang đến sự an ủi, mà là sự bất ổn, và cái bất ổn lớn nhất trong những tác phẩm với phong cách kiệm lời và bút pháp điệu nghệ của ông là: câu chữ - công cụ duy nhất để đối thoại với thế giới tồi tệ - có nguy cơ tự phá vỡ trước đe dọa của sự hoài nghi vào chủ nghĩa duy lý và sự hoài nghi vào xác tín đạo đức. “Cái giường của tôi, cái cửa sổ của tôi, cái cửa phòng của tôi, những bức tường của tôi, căn phòng của tôi”, một người đàn ông đã cầu nguyện như vậy trong tác phẩm đầu tay Miền đất của hoàng hôn (1974) của Coetzee để mong có được chút niềm tin vào thực tại mà anh ta có thể bấu víu vào đó, trong khi nhiệm vụ của anh ta ở Việt Nam là giết người bằng những cách hiện đại nhất.
Tiểu thuyết Giữa lòng đất nước (1977), được đan chia thành 266 phân đoạn, gồm những ghi chép của một cô gái già chán chường trong một trang trại Bure [3] bị cách ly với thế giới bên ngoài [4], thậm chí còn đặt sự khác biệt giữa hiện thực và hư cấu thành vấn đề. Có thể đúng là Magda đã bắn chết người cha càu nhàu sau khi ông ta lên giường với cô bếp da đen, cũng có thể cô ta chỉ tưởng tượng ra vụ giết người như vẫn thường tưởng tượng ra đủ thứ khác để lấp đầy những ngày trống ở miền đất trống này. Người ta không biết, liệu sự khác biệt có nghĩa gì không. Độc giả bị cuốn vào cuộc độc thoại gấp gáp về nỗi sợ, sự chán ngấy đời sống và những khát khao thầm kín, mà nguyên tắc duy nhất của nó là nguyên tắc thẩm mỹ.
Thẩm mỹ chiến thắng chính trị
Một đầu óc văn học xuất chúng như Coetzee không bao giờ từ bỏ nguyên tắc này. Ở ông, thẩm mỹ có chỗ đứng cao hơn chính trị hoặc thiện ý. Căn cốt trí thức của ông được thể hiện ở chỗ ngại trả lời phỏng vấn báo chí và từ chối việc giản lược những cuốn sách để làm thức ăn trích dẫn cho truyền hình. Nhà ngữ văn - bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1969 ở Đại học Quốc gia New York ở Buffalo với đề tài về phong cách tản văn của Beckett - đã học được ở tính hiện đại văn học chiến lược tinh giản, mã hóa và phúng dụ. Nam Phi không cung cấp cho ông nền tảng để đi đến chủ nghĩa tự nhiên cường thực, mà là chất liệu để giải mã, để mê hoặc độc giả dấn sâu mãi vào một hệ thống chỉ dẫn huyền bí.
Nhà phê bình văn học Paul Ingendaay sinh năm 1961 ở Cologne (Đức), nghiên cứu môn ngữ văn Anh và ngữ văn Tây Ban Nha ở Colone, Dublin và Munich. Năm 1997, nhận giải thưởng Alfred-Kerr về phê bình văn học.Từ năm 1998, Ingendaay là phóng viên văn hóa của nhật báo Frankfurter Allgmeine ở Madrid. |
Có vẻ như Coetzee muốn chống lại mọi hình thức đạo đức hóa - cái cách mà thể chế kỳ thị chủng tộc [5] muốn khuếch trương cho danh tiếng của nhà trí thức cấp tiến, muốn nghiền nát nó, bằng cách biến những nhân vật của mình thành những điểm phơi bày của mẫu thuẫn hơn là những sứ giả (của đạo đức - ND): Họ không thể chèo lái các sự kiện, mà phải chấp nhận rằng chúng xảy ra với họ. [...] [6]
Tác phẩm lớn đầu tiên của Coetzee, Canh chờ bọn mọi rợ (1980), kể về một luật sư không tên tuổi ở một đồn canh biên giới. Đồn canh được trang bị bởi một đội đặc nhiệm tàn bạo để chống lại sự đổ bộ của “những kẻ mọi rợ”, mặc dù không ai biết thực ra kẻ thù luôn được nhắc đến này là ai. Nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất, thoạt tiên là một kẻ phụng sự chế độ, rồi trở thành chứng nhân của một cuộc thanh trừng nội bộ. Khi hắn ta cưỡng lại, thì hệ thống quay ra chống lại hắn. Một trong những đoạn khủng khiếp nhất của câu chuyện, đoạn tra tấn bốn tù nhân, cung cấp một bộ sưu tập các kiểu hành vi mà con người có thể có trong cơn lốc bùng phát bạo lực, nhưng không phải từ điểm nhìn cân nhắc trung tính, mà qua con mắt tỉnh táo của một kẻ trong cuộc dù hắn bị mắc kẹt trong cái hệ thống bất công. Thay vì đơn giản là chạy sang phía kia, các nhân vật của Coetzee - tương tự như các nhân vật của ông thầy Joseph Conrad [7], lại rơi vào cuộc chiến tối tăm với cái tôi cá nhân.
Điều tác giả im lặng tác động mạnh đến ý thức người đọc
Với tiểu thuyết tiếp theo, Cuộc đời và thời đại của Michael K. (1983), Coetzee đã đẩy sự chối từ ý nghĩa tới một ranh giới mới, và qua đó mở cửa cho một cuộc đối thoại bên ngoài những công thức bị áp chế bởi ý thức hệ hoặc những quy ước tầm phào. Người hùng của ông là một kẻ độc hành khiếm khuyết - với cái môi sứt, trôi dạt từ một đất nước bị chia cắt bởi nội chiến tới chỗ chẳng còn gì hơn là cuộc sinh tồn trắng trợn, bị bắt và quản thúc, rồi được thả, nhưng tất cả những điều đó đều quá không quan trọng để được sự chú ý nghiêm túc của ai đó. Và câu hỏi đặt ra là, điều gì sẽ xảy ra nếu như số đông chúng ta đều là những kẻ “ăn giun” như vậy?
Chính điều Coetzee im lặng lại tác động mạnh đến ý thức người đọc. Một cách tàn nhẫn, ông bắt độc giả phải đối diện với tình thế tiến thoái lưỡng nan và phải lựa chọn giữa hai cái cùng tồi tệ. So sánh cái không thể so sánh, đó là tinh thần của tiểu thuyết Điếm nhục, cuốn sách đã giúp tác giả của nó đứng vào danh sách những người có sách bán chạy nhất thế giới và lần thứ hai đoạt giải Booker (1999). Chỗ này là chuyện một giáo sư văn học bị đẩy tới tỉnh lẻ vì quan hệ tình dục với một nữ sinh viên; chỗ kia là chuyện con gái ông ta bị cưỡng hiếp bởi ba tên da đen ngay tại trang trại của mình, và không những từ chối báo cảnh sát mà còn giữ nuôi đứa con. Một sự bắt đầu mới? Không hẳn, mà có lẽ chỉ là một cái gì đó rất khiêm tốn thôi - một cố gắng giải phóng những cái đầu của chúng ta ra khỏi đống cũ kỹ những quan niệm của châu Âu.
Phá vỡ và tái tạo
Chúng ta đừng quên những con vật xuất hiện khắp nơi trong tác phẩm của Coetzee, mà ông còn viết riêng một cuốn sách về chúng (Cuộc sống động vật, 2000). Nếu trong tiểu thuyết Điếm nhục, ta thấy những con chó bị gây mê và bị đẩy vào cái chết công nghiệp, thì cậu bé, hóa thân của Coetzee trong cuốn tự thuật cùng tên (1997), đã tự vấn về nỗi nhẫn nhục của những con cừu khi bị dẫn tới lò sát sinh. Cậu muốn nói thầm vào tai chúng, cảnh báo về mối hiểm họa đang chờ đợi chúng. “Nhưng rồi cậu phát hiện trong những con mắt vàng của chúng điều gì đó khiến cậu câm lặng”. Đó là sự tỉnh mộng, sự thấu biết. Những tình huống kiểu này thỉnh thoảng cũng xuất hiện trong cuốn tự thuật tiếp theo của Coetzee, Tháng năm tuổi trẻ (2002), một tự thuật chân thật đến đau đớn, nếu từng có một tự thuật như vậy. Cái tự thể giằng xé này - có lẽ không ai ghen tị với Coetzee về nó - nhắc độc giả chúng ta nhớ rằng, nghệ thuật nghiêm túc là gì: Phá vỡ và tái tạo.
Đinh Bá Anh dịch
(Nguồn: Wege, die zur Schlachtbank führen, Frankfurter Allgemeine Zeitung, Số 230, trang 37, 04/10/2003)
Chú thích của người dịch:
[1] Nguyên văn: Và còn là với Nam Phi: Ám chỉ tình trạng kỳ thị chủng tộc và bất công xã hội ở Nam Phi.
[2] Tiếng Đức: Erbauungserlebnis: trải nghiệm có tính xây dựng (theo cách được rao giảng về một đạo lý nào đó). Ý nói các nhà văn này (Naipaul, Kertesz và Coetzee) đều khước từ dòng văn học chủ trương “văn dĩ tải đạo” (Erbauungsliteratur).
[3] Dân Bure: Hậu duệ của những người gốc Đức và Hà Lan di cư sang Nam Phi.
[4] Nguyên văn: Bị Chúa bỏ quên.
[5] Chỉ thể chế Nam Phi trước thời Mandela.
[6] Chúng tôi cắt đi một đoạn ngắn, tác giả bài báo nói về việc dịch tác phẩm của Coetzee sang tiếng Đức.
[7] Jósef Teodor Konrad (1857-1924): nhà văn gốc Ba Lan, viết tiếng Anh, nổi tiếng với các tác phẩm: Heart of Darkness, The Nigger of the 'Narcissus', Lord Jim...
Các tác phẩm chính của J.M. Coetzee: In the Heart of the Country (Giữa lòng đất nước, giải Booker 1977), Waiting for the Barbarians (Canh chờ bọn mọi rợ), The Life & Times of Michael K (Cuộc đời và thời đại của Michael K), Dusklands (Miền đất của hoàng hôn), Disgrace (Điếm nhục, giải Booker 1999) - đã được dịch ra tiếng Việt với tựa là "Ruồng bỏ".